Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Hát Bình Phương - CHỊ TÔI

29 Tháng Giêng 20155:15 CH(Xem: 27591)
Hát Bình Phương - CHỊ TÔI

Ch Tôi

 

ao am me dan


 

Bây giờ đã quá tuổi “thất thập cổ lai hy'', chị tôi luôn cảm thấy vui và hạnh phúc khi sống trong nhà từ đường của gia đình. Đó là một ngôi nhà xưa, tuy đã được sửa sang lại mấy lần nhưng vẫn giữ nét cổ kính vì là nơi thờ phượng tổ tiên.

Trong nhà, những vật dụng bằng gỗ đều do ông Nội của tôi làm ra, vì ông vốn là thợ mộc. Từ cái tủ thờ, bộ ván gõ, cái bàn cùng sáu cái ghế trước tủ thờ cho đến tủ đựng chén dĩa, tủ đựng quần áo... như vẫn còn lãng đãng dấu tay của ông Nội tôi ngày trước.

Cù Lao Phố là nơi đại gia đình của tôi trải qua các thế hệ cả trăm năm nay. Không biết tự bao giờ mà ông bà Cố của tôi đến lập nghiệp nơi đây. Rồi đến ông bà Nội và

 

thế hệ cô, bác, ba tôi cũng được sinh ra và lớn lên ở nơi nầy.

Các anh chị em tôi cũng đã trải qua thời niên thiếu trong ngôi nhà cạnh dòng sông Đồng Nai, luôn có những cụm lục bình trôi lờ lững. Nước ngọt của dòng sông đã tưới mát ruộng đồng thành một vùng đất trù phú với cây ngọt trái lành.

Chiến tranh đã đẩy đưa một số thanh niên rời quê cha đất tổ, đi đến chốn thị thành để tìm sự bình yên rồi lập nghiệp nơi định cư mới. Bác tôi và ba tôi ở trong trường hợp đó. Rốt cuộc thì người ở lại thờ phượng ông bà là cô của tôi.

Chị Ba của tôi lại nối tiếp con đường của cô tôi, khi những đứa em phải sống xa quê và có vài đứa em họ phải rời cố quốc, xa quê hương hơn nửa vòng trái đất - trong đó có tôi - ra đi mà lòng ngậm ngùi nhớ thương quê cha đất tổ...

Má của chị là cô Hai của tôi. Nghe kể lại rằng, vào thập niên 30, có một người thanh niên từ đất Nha Trang vào Saigon làm việc. Rồi do duyên tiền định, ông gặp cô tôi có vài lần và đem lòng cảm mến.

Cô tôi thuở ấy rất xinh đẹp, được nhiều người trong làng để ý, nhưng lại phải lòng người khách phương xa, đã nhận lời cầu hôn với điều kiện là vẫn sống cùng cha mẹ ở Biên Hòa vì cô là con gái lớn, các em đã lập nghiệp xa quê.

Thế rồi chị Hai ra đời, khi được năm tuổi thì bị bệnh và mất. Chị Ba là đứa con gái kế, mang những nét đẹp của cả cha lẫn mẹ, đôi mắt to và làn da trắng hồng. Cô dượng đặt tên là Hồng, đúng là một đóa hồng nhung, càng lớn càng xinh đẹp.

Khi học xong lớp Ba ở trường làng, chị phải lên Biên Hòa học tiếp trường Nguyễn Du. Sau đó, chị học trường Nữ Công Gia Chánh vì không có điều kiện về Saigon học tiếp trung học. Thuở đó, trường trung học Ngô Quyền chưa được thành lập.

Sau đó chị nghỉ học, ở nhà phụ giúp cô tôi chăm sóc bà Ngoại, đứa em gái và thêm một đám em họ là năm anh em chúng tôi, được ba má tôi gửi về bà Nội nuôi dưỡng. Tuy là em họ nhưng chị xem như các em ruột vì chúng tôi sống chung với chị từ lúc còn rất nhỏ.

Khi các em đã lớn, chị phải đi làm để giúp đỡ gia đình. Chị chấp nhận học ít, mà lại muốn các em có cơ hội học cao hơn, để tương lai thêm phần sáng lạng. Chị tôi quả là một người chị tuyệt vời, hy sinh cho gia đình.

Dạo đó, cùng lúc với quân đội Mỹ đến Việt Nam để chiến đấu cho tự do của miền Nam, thì cũng có những hội truyền giáo người Mỹ đến VN để truyền đạo Tin Lành. Chị làm việc cho Hội Thánh Tin Lành ở Saigon.

Hội nầy chủ yếu là truyền đạo Tin Lành cho đồng bào thiểu số ở vùng Tây Nguyên, nên chị có nhiều lần đi Kontum, Pleiku... Các dân tộc thiểu số ở đây khi đã trở thành tín hữu Tin Lành thì có đức tin rất cao. Kinh Thánh được in bằng chữ của các dân tộc Tây Nguyên.

Chị đi làm ở Saigon, mỗi tuần về nhà một lần. Những chuyến xe đò Liên Hiệp, xe lô đã in bước chân của người con gái Biên Hòa nặng gánh gia đình. Biết bao nhiêu năm tháng chị đã hy sinh tuổi trẻ của mình.

Các em lớn lên đều yên bề gia thất, có một mái ấm gia đình riêng. Duy có chị vẫn còn độc thân để chăm sóc bà Ngoại và mẹ tuổi đã già. Chị lập gia đình rất muộn và có một đứa con gái duy nhất. Chồng chị cũng đã qua đời mấy năm nay.

Những ngày cuối của tháng 4/75, Hội Thánh Tin Lành rút về Mỹ, họ muốn đưa chị di tản theo nhưng chị đã từ chối vì không muốn xa gia đình. Thế là chị ở lại và cũng đã gặp nhiều khó khăn sau ngày mất nước, vì chị đi làm cho Mỹ dù chỉ là hội truyền giáo.

Cả một quãng đời của chị, từ hồi niên thiếu cho đến lúc tuổi già, chị vẫn sống ở Cù Lao Phố và lo việc cúng kiếng tổ tiên, thay cho những đứa em trai ở xa. Chị đã chứng kiến những thăng trầm của Biên Hòa trước và sau năm 75, mà chị cảm thấy vui ít buồn nhiều.

Cù Lao Phố gắn liền với cầu Gành và cầu Rạch Cát, hai chiếc cầu mang tính lịch sử hơn 100 năm, từ thời Pháp thuộc. Người dân Cù Lao muốn đi Chợ Đồn hay Biên Hòa phải sử dụng hai chiếc cầu đó.

Gần đây, hai chiếc cầu Hiệp Hòa và Bửu Hòa lần lượt được xây dựng, mới hơn, đẹp hơn và rộng rãi hơn. Cầu Gành và cầu Rạch Cát vẫn còn đó nhưng chỉ cho xe lửa và người bộ hành được sử dụng. Hai chiếc cầu vẫn còn ngạo nghễ trên dòng Đồng Nai nhưng đã vắng bóng xe cộ qua lại.

Chị nói với tôi, “Hai cây cầu mới tuy kiên cố và đẹp hơn hai chiếc cầu cũ, nhưng với chị, cầu Gành và cầu Rạch Cát vẫn còn là cái hồn của Cù Lao Phố.” Nó chứa đầy kỷ niệm mà người dân Cù Lao vẫn giữ trong lòng, của một thuở xa xưa.

Chị đang ở quê nhà mà còn nuối tiếc kỷ niệm, huống chi tôi đang sống bên kia bờ đại dương, đã xa quê hương suốt hai mươi năm. Với tôi, ký ức về Biên Hòa - Cù Lao Phố, đã ăn sâu vào tâm tưởng và bất biến theo thời gian.

Nghe chị tôi nói đã có dự án làm con đường mới dọc theo bờ sông và người ta đã đo đạc để giải tỏa bờ sông. Thế là trong tương lai, cái bến sông mà ngày xưa còn bé, anh chị em chúng tôi ngụp lặn trong dòng nước mát sẽ không còn nữa, ký ức của một thời tuổi trẻ như vụt bay xa...

Ngày ấy, những buổi chiều hè, tôi hay ngồi ở bến sông, nhìn ra cầu Rạch Cát, xem những dòng xe chạy trên cầu, thấp thoáng bóng dáng của người bộ hành trên lối đi gập ghềnh hai bên thành cầu. Những chiếc ghe chài lưới ẩn hiện trên sông đang bủa lưới. Từ xa ánh mặt trời rắc những tia nắng cuối cùng trước khi biến mất phía chân trời xa bên kia cầu.

Thỉnh thoảng chị vẫn nhắc đến ông Ngoại, người mà chị luôn kính trọng vì ông đã thay cha mẹ đã mất sớm mà lo cho hai người em gái, nuôi nấng tới tuổi lớn khôn, yên bề gia thất rồi ông mới cưới vợ. Còn má của chị cũng theo gương cha, suốt một đời lo cho các em và con cháu. Rồi đến đời chị cũng vậy, noi theo tấm gương hy sinh của những thế hệ đi trước. Ôi những tình cảm gia đình sao mà thiêng liêng quá!

Tôi còn nhớ khoảng thập niên 60, khi chị làm việc ở Hội Thánh Tin Lành của Mỹ, biết tôi thích sưu tầm tem thơ, chị vẫn dành thời gian rỗi rảnh để thu nhặt những bao thơ có những con tem từ Mỹ gửi qua Việt Nam cho nhân viên của Hội, để làm quà cho tôi. Mỗi lần nhận được những con tem Mỹ là tôi rất vui mừng, cám ơn chị và thấy thương chị vô cùng.

Tôi vẫn còn giữ quyển sưu tầm tem thơ của tôi ngày ấy, những con tem với hình phi thuyền Apolo 11, hình các vị tổng thống Mỹ, hình Giáng Sinh, hình bông hoa đủ màu sắc... tuy nay đã úa màu nhưng tôi vẫn cảm thấy như còn dấu tay của chị trên đó, dù đã hơn 40 năm qua. Biết làm sao nói hết được tình cảm của người chị dành cho đứa em gái nhỏ ngày ấy!

Tôi quên làm sao được những lần cúng Kỳ Yên ở Đình Bình Tự, cứ ba năm một lần, có gánh hát bội về làng là mấy chị em dẫn nhau đi xem hát đến tận nửa đêm mới lội ruộng về nhà. Những lần hát Hồ Quảng bằng tiếng Hoa ở Chùa Ông cũng không thiếu vắng chị em chúng tôi đi xem. Kỷ niệm của thời thơ ấu sao mà đáng yêu và đầm ấm quá!

Ngày tháng năm trôi qua, tất cả đều thay đổi theo dòng thời gian, cảnh vật và con người cũng đổi thay. Trong ký ức của kẻ xa quê, những gì của ngày xưa vẫn còn in trong trí. Cho đến một ngày trở lại chốn quê nhà, phải ngỡ ngàng trước cảnh vật đổi thay, tưởng chừng như không phải là chốn cũ của mình...

Một mùa Xuân nữa lại trở về trên quê hương. Không biết cây mai vàng trước nhà có nở hoa kịp vào dịp Tết để được chị cắt một cành mai đẹp nhất, trân trọng cắm vào bình hoa trên tủ thờ? Đó là nơi trang nghiêm giữa nhà, có hình của ông bà và cha mẹ, những người mà cả một đời gắn liền với vùng đất Cù Lao, nơi quê cha đất tổ.

Tôi ước mong chị có sức khỏe tốt để sống lâu dài trong ngôi nhà thân yêu của một đại gia đình. Nơi đó đã một thời là tổ ấm năm thế hệ của một gia đình con dân Biên Hòa. Vận nước nổi trôi đã phân tán các thành viên của gia đình chúng tôi, kẻ nơi góc biển - người ngoài chân mây...

Hát Bình Phương

 

 

04 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 54259)
Nhân dịp nghi lễ Tạ Ơn, BCH Hội AHNgô Quyền và BCH Hội AHBiên Hòa, California đã nhận lời mời của anh Nguyễn Quý Đoàn khoá 6 Ngô Quyền tham dự tiệc thân mật với gia đình ngày chủ nhựt 28 tháng 11 năm 2010.
03 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 105196)
Như hôm nay mưa thì lại nhớ đến những cơn bão rớt ở quê mình, mái nhà xưa và bến sông ngập đầy nắng gió.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 125225)
Luân thường gìn giữ cho nhau Xem như mình lại lỡ tàu nửa đêm Vẫn là anh... vẫn là em... Hãy đem dĩ vãng êm đềm chôn sâu.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 124915)
Sao phương nào tụ lại Theo gió ngàn lung lay Ngọn đông phong tê tái Chiếc lá cuối cùng bay.
01 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 124468)
Tuyết trắng bay bay lạnh buốt đời Nhớ người năm cũ lệ buồn rơi Tình thư còn đó người đâu nửa Người biết hay chăng đã một thời...
01 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 111575)
"Cô Ba ơi, con không nghĩ có một ngày con được về và đứng ở đây. Con vẫn còn nhớ mấy trái thị cô đã tặng cho con. Con xin cầu nguyện cho linh hồn của cô được yên vui ở cõi vĩnh hằng"
30 Tháng Mười Một 2010(Xem: 62427)
Cô Trần Thị Hương, nguyên giáo sư dạy môn Quốc văn ở Trung học Ngô Quyền từ năm 1966 đến năm 1973, đã đột ngột qua đời ngày 26 tháng 11 năm 2010 ở Santa Clara, California,
29 Tháng Mười Một 2010(Xem: 43019)
Cầu mong Cô ra đi an bình, thanh thản. Mỗi lần ra biển em sẽ nhớ đến Cô. Chắc là biển sẽ mang Cô về lại với quê nhà...
28 Tháng Mười Một 2010(Xem: 120866)
Lễ Tạ Ơn, chính mùa đoàn tụ Con cháu khắp nơi dắt díu về Quây quần ấm cúng bên cha mẹ Kể chuyện tâm tình cho thỏa thuê…
28 Tháng Mười Một 2010(Xem: 47207)
Mỗi khi chán đời, chờ hoài không thấy cơn buồn tan biến, nhìn mặt mình trong gương ủ rũ, thảm thương hơn chiếc lá nằm lay lắt bên bờ cỏ, chờ gió chiều thổi xuống dòng đường lắm xe, tôi thường ghé nghĩa địa tìm người chết.
27 Tháng Mười Một 2010(Xem: 123954)
“Ngày xanh tóc hãy còn xanh Bóng chim qua cửa tóc đành điểm sương Ngày xanh tươi trẻ đến trường Giờ đây sao biết người thương nơi nào?!”
18 Tháng Mười Một 2010(Xem: 124141)
Đi phương nào thì đường xưa vẫn nhớ Dốc Ngô Quyền ký ức nhớ đầy tim Không bạc lòng áo trắng hiền muôn thuở Nắng gió Biên Hòa vẫn còn đó thương yêu.
18 Tháng Mười Một 2010(Xem: 122183)
Thầy đứng lại để con bước tới Bóng hoàng hôn tỏa ánh nhân từ Ấm lòng con tình thầy vời vợi Tuổi học trò chẳng chút ưu tư .
12 Tháng Mười Một 2010(Xem: 119327)
Có phải xa mười năm mà anh nhớ Sàigon Hay nhìn một chút nắng lên mà thương về bên ấy?
05 Tháng Mười Một 2010(Xem: 124150)
Bây giờ mây đang bay vào cô tịch Vẫn nhớ nao lòng sông lạnh chiều xa Ở đó có hàng sa kê thật tuyệt Và một người đàn mãi khúc tình ca.
04 Tháng Mười Một 2010(Xem: 63804)
Ly cà phê buổi sáng Nhìn đời trôi theo ngày cùng tháng Bao tiếc nuối cũng đành Còn bên ta ngàn nỗi muộn màng
02 Tháng Mười Một 2010(Xem: 134183)
Mẹ đã thay cha buổi sớm chiều Dạy con cao cả một chữ YÊU Dạy con hiếu đạo tròn ân nghĩa Cơm cha, áo Mẹ buổi kinh chiều
01 Tháng Mười Một 2010(Xem: 48415)
Thầy Cô ơi! Bạn ơi! Giờ ở nơi đâu Có lượm được chút nào công thức Toán? Đời không cộng thêm vui, đời trừ đi hy vọng Hạnh phúc chẳng nhân lên, buồn khổ lại chia đều
01 Tháng Mười Một 2010(Xem: 116295)
Huỳnh văn Huê vào đệ thất Ngô Quyền năm 1963, đệ nhất B1 năm 1970, học cùng với Ng.x.Quang, Ph.t.Thừa, Tr.h.Phúc, Tô.a.Dũng và nhiều bạn khác nữa…
31 Tháng Mười 2010(Xem: 117784)
Vết thương nào rướm máu Vết cắn nào in sâu Cho muôn đời muôn kiếp Ta vẫn là của nhau
30 Tháng Mười 2010(Xem: 115284)
Hoa hướng dương cần nắng Để đong đưa sắc vàng Xòe hết cánh xinh tươi Mặt tròn xoe duyên dáng.
29 Tháng Mười 2010(Xem: 123607)
Thu đến rồi tàn, thu lại sang Ngoài kia sắc lá đỏ, cam, vàng Gió thu vi vút se se lạnh Muôn thuở tình thu, nhớ mênh mang...
27 Tháng Mười 2010(Xem: 280285)
... để thấy mùa Thu năm nay khởi sắc, lãng mạn và nồng ấm hơn bao giờ hết với đất trời vàng ươm màu áo mới và lòng người như vương vấn chút heo may... Xin bấm vào tựa bài muốn đọc:
23 Tháng Mười 2010(Xem: 111603)
Phải chi từ biệt là quên hết Không còn ray rứt phút thương đau Phải chi chia cắt mà tình chết Mình chẳng nhớ nhau đến bạc đầu.
23 Tháng Mười 2010(Xem: 57354)
Sao rơi hay đom đóm? Chớp tắt suốt đường quê Bìm bịp kêu thắc thỏm Đêm bỗng dài lê thê. Đom đóm hay sao rơi? Chập chờn theo cánh gió Hương hoa khế bồi hồi
22 Tháng Mười 2010(Xem: 111534)
Có phải chiều nay mưa hắt hiu Sương mù tỏa kín khắp buổi chiều Gió mơn man tung làn tóc rối Mắt nhạt nhòa giọt lệ buồn thiu