Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - TỪ CẦM PHẤN VIẾT BẢNG ĐẾN CẦM BÚT VIẾT VĂN

02 Tháng Mười Một 201212:00 SA(Xem: 25081)
GS. Nguyễn Văn Lục - TỪ CẦM PHẤN VIẾT BẢNG ĐẾN CẦM BÚT VIẾT VĂN

Từ cầm phấn viết bảng đến cầm bút viết văn –

Kinh nghiệm cầm bút

 

27_1_tucamphan-thay_nvluc--large-content

GS Nguyễn Văn Lục


Cách đây khoảng trên mười năm, tôi có viết một bài về giới y sĩ cầm bút, đăng trong một tập san y sĩ. Bài viết đưa ra nhận định không mấy lạc quan về giới cầm bút trong y giới. Đặc biệt có đề cập đến giáo sư Trần Ngọc Ninh - một trí thức hàng đầu trong y giới và có thể trong cả văn giới - về khả năng viết nhiều, đa dạng trải dài trong nhiều lãnh vực của ông. Tôi có cho rằng giáo sư Trần Ngọc Ninh tham bác nhiều lãnh vực quá sẽ loãng, sẽ khó nắm bắt hế; sau này không biết xếp ông vào loại nào - nhà văn, nhà khảo cứu, nhà Phật học hay nhà ngôn ngữ học?

Tôi được nghe kể lại về ông khi còn là sinh viên nội trú, ông đã đọc hết sách về nội trú, khi làm giáo sư thì cũng vậy. Ông bèn quay sang giải phẫu tiểu nhi, trở thành một trong những người đi tiên phong ở Việt Nam trong lãnh vực này. Nhưng biết hết rồi thì chán quá, phải đi tìm cái khác, ông bèn nhảy sang lãnh vực văn học, triết học, Phật học, xã hội học, phê bình Kiều và nhất là trong lãnh vực ngôn ngữ học. Hình như ở trong lãnh vực nào, ông cũng muốn là người khai phá, trổi bật! Dù tuổi đã chín muồi. Khát vọng đọc cũng không nguôi. Ông có thể bỏ ra hai tiếng đồng hồ qua điện thoại nói về một đề tài ông thích thú!

Dù là những nhận xét nhẹ nhàng, tôi cũng có mặc cảm có lỗi của một người cầm bút đối với một bậc tiền bối! Phải chăng đó là sự trót dại của “tuổi trẻ” hay sự háo thắng của người cầm bút?

Nhưng đằng khác lại nghĩ rằng cầm bút mà thiếu lòng tự hào thì thà buông bút! Kinh nghiệm như thế để nhớ đừng chê ai viết dở. “Văn mình, vợ người”, các cụ thường dạy như thế ! Tự hào là đặc sủng của một người cầm bút.

Tôi còn có “trót dại” nữa khi nhận xét thêm rằng có sự nghèo nàn và hiếm hoi trong giới y sĩ khi đi vào văn học bằng cửa chính. Ít có nhà văn, nhà khảo cứu nào trong y giới đáng nể!

Điểm mặt thế hệ cựu trào thì có một số bác sĩ cầm bút như các bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Đình Cát, Nguyễn Trần Huân. Tiếp theo có các bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Thị Lợi, Nguyễn Văn Ba. Tính cách nghiệp dư nơi họ khá rõ.

Đến lượt các bác sĩ như Nguyễn Hữu Phiếm, Nguyễn Tuấn Phát, Trần Ngọc Ninh, Trần Long Hồ, Trang Châu, Ngô Thế Vinh thì đã chuyên sâu hơn và bước hẳn vào mảnh đất văn học.

Sau này, sau 1975, ở hải ngoại thì nở rộ có nhiều người viết theo tình hình chung của văn học hải ngoại. Chúng ta có các bác sĩ như Trần Văn Tích, Lê Văn Lân, Hồ Văn Châm, Nguyễn Thanh Bình, Phạm Hữu Trác, Huỳnh Hữu Cửu, Hoàng Văn Đức, Thân Trọng An, Trần Mộng Lâm v.v…

Nhưng nhận xét làm nhiều người cảm thấy khó chịu khi tôi có sự so sánh một cách “ấn tượng” là: Xem ra việc cầm phấn viết bảng chuyển sang cầm bút vẫn dễ hơn từ cầm ống nghe hay dao kéo sang cầm bút.

Chính tôi cũng không lý giải được minh bạch là tại sao người cầm phấn viết bảng - nghĩa là giới nhà giáo - khi chuyển sang cầm ngòi bút vẫn có sự chuyển nghiệp tương đối không mấy khó khăn và thành công hơn?

Tuy là một nhận xét trung thực dựa trên sự thực nhưng cũng đã làm một vài vị Tu bíp ngứa ngáy khó chịu viết bài phản bác trong số báo y sĩ kế tiếp. Tôi đọc và chỉ cười. Chỉ có một điều tôi khá ân hận như đã nói ở trên là việc phê phán giáo sư Ninh mà đáng nhẽ tôi không nên viết như thế. Sau này, có dịp gặp gỡ và điện thoại trao đổi với ông nhiều lần, ông không hề nhắc nhở và để tâm đến bài viết ấy. Phải chăng đó cũng là sự cao ngạo quen thuộc của giới cầm bút!

Trở lại chủ đề của bài viết này là: Từ cầm phấn viết bảng sang cầm bút viết văn. Câu hỏi đặt ra là tại sao có nhiều người từ bục giảng trở thành nhà phê bình, nhà văn, nhà nghiên cứu?

Hiện tượng xã hội văn học đó hình như không phổ biến nơi các nước tiên tiến như Pháp, Anh, Mỹ. Nhà văn, nhà báo Mỹ rất chuyên nghiệp và là một ngành nghề mà sự chọn lựa không đến từ ngành giáo dục? Các nhà văn, nhà báo, nhà khảo cứu các nước Tây Phương là những người sinh ra để làm nhà văn ngay từ đầu. Họa chăng có những trường hợp họ là nhà báo sau này trở thành những người viết sử như rất nhiều nhà báo đã có mặt trong chiến tranh Việt Nam viết sách như Stanley Karnov, Bernard Fall, Jean Larteguy. Hoặc họ là giáo sư đại học chuyên môn về sử, chính trị như Arthur J. Dommen, Seth Jacop, Sergei Blagov v.v…

Về phía miền Nam, mặc dầu không có thống kê và cũng chẳng có ai rách việc ngồi đếm xem có bao nhiêu người đứng trên bục giảng đồng thời là người cầm bút. Nhưng tôi có thể chắc một điều là đa số người cầm bút xuất thân từ môi trường giáo dục - kể cả trung học và đại học. Điều này chỉ đúng ở miền Nam từ 1955-1975 mà không đúng ở các giai đoạn trước đó.

Thật vậy, nhìn lại giai đoạn tiền chiến thì lại khác hẳn. Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nhất Linh, Thạch Lam, Khái Hưng, Vũ Trọng Phụng, Tú Mỡ, Văn Cao, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nam Cao, Nguyên Hồng, Huy Cận, Nguyễn Tuân, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Bính, Trần Tiêu, Tô Hoài đều là những nhà văn, nhà báo, nhà phê bình chuyên nghiệp. Họ chọn đi vào viết văn, làm thơ, làm báo với tính cách chuyên nghiệp- nghĩa là sống bằng ngòi bút. Vì thế khi viết về dòng văn học này, tôi đã không ngần ngại gọi là văn học thế hệ 1932-1945 là thế hệ tiểu thuyết.

Tình hình sinh hoạt trong Nam khác hẳn giai đoạn đi trước nó. Nó có đặc trưng nổi bật như một hiện tượng xã hội văn học là người cầm phấn rồi cầm bút phần đông sống bằng đồng lương dạy học, hay công chức mà viết chỉ là nghề tay trái có tính cách “nghiệp dư”.

Tất cả những vị có tên dưới đây đều sống bằng nghề dạy học và không mấy ai có thể sống bằng nghề cầm bút. Phải chăng lý do tài chánh cắt nghĩa được phần nào hiện tượng cầm phấn và cầm bút cùng một lúc? Nó phơi bày ra phần nào tính cách khắc nghiệt của nghiệp cầm bút trước 1975 và bây giờ ở hải ngoại?

Khi người cầm bút không thể tự nuôi sống mình bằng ngòi bút thì hãy khoan nói tới một nền văn học hay một mảng văn học! Những mơ ước của người cầm bút trong tình trạng hiện nay ở hải ngoại là mơ ước hão huyền chỉ cho thấy hiện tượng lão hóa trong giới nhà văn, lão hóa đề tài chẳng khác gì như dòng suối khô cạn trong sinh hoạt văn hóa, văn học, báo chí hiện nay. Nó bày ra cảnh nhu cầu của một số người viết thì có, nhưng nhu cầu người đọc không có. Viết cho ai là một câu hỏi gay gắt đối với người cầm bút bây giờ. Sinh hoạt văn học như những căn phố đìu hiu hay như buổi chợ chiều miền quê một thuở nào!!

Văn học miền Nam trước 1975 sở dĩ tồn tại và phát triển được là nghề cầm phấn hay nghề cạo giấy nuôi nghề cầm bút như anh què cõng anh mù tựa nhau mà sống. Đó là một nền văn học “khuyết tật” trong đó mối tương tác chênh lệch giữa người đọc, người viết, nhu cầu đọc viết và thị trường sách vở.

Mặc dầu vậy, nghĩ lại thời điểm trước 1975, nó cũng không khỏi làm chúng ta đã một thời cảm thấy hãnh diện vì xem ra nó vẫn phong phú, đa đạng, trù phú, sinh động, tươi mát, phủ bóng mát của những giây phút thoải mái và tự do.

Đó là một nền văn học đủ lý lẽ để đáng tồn tại và đem lại món ăn tinh thần cho dân miền Nam. Công ấy, bất đắc dĩ, ngoài ý muốn phải dành cho những ai đã từng đứng trên bục giảng.

Họ là yếu tố tác thành dòng chảy văn học miền Nam trong suốt gần 20 năm. Họ chẳng những là những ngôn sứ đi rao giảng hạt giống giáo dục nhân bản, tự do và khai phóng cho toàn miền Nam họ mà còn là thày dạy của nhiều thế hệ bằng ngòi bút của họ.

Họ là những ai, kể ra sao hết! Hãy kể tên một số vị tiêu biểu như một lời tri ân.

Tỉ như các cụ Nguyễn Khắc Kham, Nghiêm Toản, Nguyễn Đăng Thục, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê, Lê Văn Lý, Võ Hồng, Nguyễn Duy Cần, Cung Giữ Nguyên, Vũ Hoàng Chương, Vũ Ký, Phan Khoang, Phạm Hoàng Hộ, Trần Văn Khê, Tăng Xuân An. Tuyền những “đỉnh cao trí tuệ”, có chỗ ngồi trên chiếu văn học! Giới tu bíp ở trên không sánh kịp!

Dưới thì có các cụ trẻ hơn như Nguyên Sa Trần Bích Lan, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Nam Châu, Vũ Khắc Khoan, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Kim Định, Lê Thành Trị, Lê Huy Oanh, Trần Văn Toàn, Nguyễn Khắc Hoạch, Hoàng Khắc Thành, Võ Thu Tịnh, Thanh Lãng, Lê Hữu Mục, Bửu Cầm, Phạm Văn Diêu, Thái Văn Kiểm, Võ Long Tê, Trương Bá Cần, Đỗ Trọng Huề, Phạm Cao Dương, Nguyễn Sỹ Tế, Lê Huy Oanh, Doãn Quốc Sỹ , Nguyễn Ngọc Lan, Đặng Phương Nghi v.v… Đây là những nhà giáo, nhà trí thức, nhà phê bình, nhà lý luận, nhà sử tiêu biểu, sinh động và có tầm ảnh hưởng nhất định trên sinh hoạt văn học của dân đô thị miền Nam.

Tiếp nối họ là những người đàn em, trẻ hơn một chút và nghiêng hẳn về phạm vi văn học!

Và nay, đâu đây có thêm tiếng the thé âm sắc phụ nữ chen vào tiếng ồ ồ của đám đàn ông! Đó là những nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhạc sư như Nguyễn Mộng Giác, Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Trọng Văn, Lê Thanh Hoàng Dân, Nguyễn Nhã, Quách Thanh Tâm, Nguyễn Khắc Ngữ, Trương Bá Phát, Nguyễn Văn Hầu, Nguyễn Văn Xuân, Trần Đăng Đại, Nguyễn Tuấn Anh, Phạm Phú Minh, Nguyễn Khắc Cung v.v…

Xét ở bình diện của một lớp sinh viên Triết mà tôi theo học. Anh em cũng đếm ra được có bảy người trên tổng số 30 người có đeo theo bên mình nghiệp cầm bút. Tỉ lệ 25% là một tỉ lệ lớn lắm. Phần tôi ráng chen chân vào trong số đó. Nhưng như bất cứ chuyện gì trong đời sống, tiền là yếu tố quyết định. Nợ cơm áo trả cho xong rồi mới đến nợ nhà, nợ văn chương chữ nghĩa.

Từ người đứng trên bục giảng như một người thày đến việc cầm bút. Niềm hãnh diện ngang nhau.

Tôi nghiệm ra rằng ngoài chút năng khiếu viết, người cầm bút phải đọc rất nhiều. Vốn đọc đi đôi với vốn viết. Không thể có thiên tài nếu không có tiền bối.

Điều thứ hai tối quan trọng, nếu không tôn trọng sự thật và đi tìm và bảo vệ sự thật thì tốt hơn hết không nên cầm bút. Trong cái nguyên tắc trên, mỗi người cầm bút có những “trăn trở” riêng. Nhu cầu viết của tôi có một “ám ảnh bệnh hoạn” là viết lại, sửa lưng những cái gì người ta viết sai hoặc cố tình ác ý viết sai.

Trở lại vai trò của người cầm bút trong giai đoạn này thì nét đặc trưng của họ là tinh thần dân tộc trong những nhức nhối của cuộc chiến, nhưng cũng không thiếu nét khai phá và tìm tòi. Từ nay văn học đã nay đã đổi mầu. Nó không còn là mầu hồng, nhưng có bi kịch suy nghĩ, có dấn thân, có khắc khoải.

Cường độ chiến tranh gia tăng thì văn học đổi theo. Vai trò các nhà giáo trong vai trò nhà văn, nhà phê bình, nhà nghiên cứu xem ra không thích ứng kịp với khủng hoảng chính trị quân sự đang xảy ra từng ngày. Vai trò nhà giáo-nhà văn dần lu mờ.

Thay vào đó là lớp trẻ, sinh viên - không tên tuổi, không thành tích, ngay cả không giỏi nghề viết lách - xuất hiện. Họ làm thơ viết văn không phải để giải trí – Mà họ coi văn học như thứ văn nghệ đen, nói lên tiếng nói bất lực, chán nản, mệt mỏi và mất hy vọng. Đó là giai đoạn chót của cuộc chiến trước 1975.

Viết phác họa lại một vài nét của nhà giáo cầm phấn trên bục giảng và rồi cầm bút viết văn, người viết bài này thấy rằng đó vẫn là những vai trò cao quý nhất mà một xã hội cần phải có ở thời điểm 20 năm miền Nam và cả bây giờ.

 27_2_tucamphanviet-thaynvl-large

Thầy Cô và ChsNQ tham dự buổi ra mắt sách của Thầy NVL tại Cali tháng 8, 2010

 

 

24 Tháng Mười 2020(Xem: 11341)
Căn nhà như chiếc áo rách toang Mưa tuôn, gió thổi sẽ tan hoang Tôi thân các cháu chờ người cứu Xin trời thương xót kiếp cơ hàn.
18 Tháng Mười 2020(Xem: 12042)
Khi xe lửa rời bến, tôi đứng ở cửa sổ để nhìn lại Huế một lần cuối thì khói xe lửa tạt vào mặt tôi và từ đó bụi khói vào mắt tôi làm tôi chảy nước mắt suốt một đoạn đường dài.
18 Tháng Mười 2020(Xem: 11538)
vẫn cằm vuông. vẻ cương nghị nét phong trần, theo thời gian, phủ dầy vai áo chiếc chemise carreaux thầy thường mặc như một chọn lựa dấn thân ngày tuổi trẻ cho tuổi trẻ lần cuối cùng tôi gặp lại thầy, đã quá tám năm...
18 Tháng Mười 2020(Xem: 12191)
Thế đành... dang dở... âu đành thế Thôi vậy... ngậm ngùi... cũng vậy thôi Bạn hỡi! Hãy quên đi bạn hỡi Đời vui như thuở mới vui đời!
10 Tháng Mười 2020(Xem: 10069)
Màu da ngâm ngâm hơi rám nắng, mũi không cao, mắt mí lót, mặt có những nốt tàn nhang li ti. Nụ cười cũng chẳng làm nghiêng nước nghiêng thành nhưng biểu cảm sự thành thực và thân thiện.
10 Tháng Mười 2020(Xem: 12493)
Thôi nhé! Nghìn thu em ngủ yên Nỗi đau chị không muốn khêu thêm Tiễn em bàn phiếm buồn rưng rức Những dòng chữ viết cũng ưu phiền.
09 Tháng Mười 2020(Xem: 12366)
Thôi thì trước mặt sông sâu Lá xuôi dòng nước biệt sầu thế gian Đẹp thay chiếc lá thu vàng Bềnh bồng trên nước thênh thang giữa trời...
04 Tháng Mười 2020(Xem: 11472)
Những giọt nước mắt của mùa thu yêu thương và hoài niệm. Rồi mọi thứ sẽ qua, rồi tôi cũng sẽ đi vào hư vô. Mọi vật đều vô thường. Hãy nghĩ như vậy để yên vui.
30 Tháng Chín 2020(Xem: 13115)
Dĩ vãng chợt về ta đứng lặng. Chuyện của ngày xưa, thu của Thu. Ta đến giữa mùa thu lá vàng. Ta đi màu sắc vẫn ngập tràn. Giữ mãi trong tim vàng, tím, đỏ Như giữ một thời đã sang trang.
30 Tháng Chín 2020(Xem: 12643)
Người đi vượt chốn ba đào Mùa thu ở lại ngắm sao nguyên cầu Thời gian cõi tạm bao lâu? Mùa thu ở lại ngậm sầu lá rơi! Mong người đến chốn đúng nơi Thành tâm chung sức giúp đời an yên
24 Tháng Chín 2020(Xem: 13821)
Trăng viễn xứ trở về trên bến đợi Lòng thuyền xưa rời bến đã lâu rồi Trăng viễn xứ mờ mờ trên bến cũ Lòng thuyền nào đã chứa nửa vầng trăng?!
24 Tháng Chín 2020(Xem: 12144)
Trăng Thu đủng đỉnh qua vườn Chén trà hỏi bánh người thương đâu rồi? Gió thu lùa vạt mây trôi Để trăng in đậm dáng người phương xa
19 Tháng Chín 2020(Xem: 11183)
Nguyện cầu cho sân si con người dịu lại, thấy được sự vô thường của cuộc sống. Nguyện cầu cho lửa mau tàn, cho người dân trở về nhà sinh sống bình an. Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát.
19 Tháng Chín 2020(Xem: 12856)
Từ biệt Portland về Cali Hai nơi cháy lớn ở và đi Tàn tro mắt đỏ tôi xoa mãi. Tháng chín năm nay thật ai bi.
12 Tháng Chín 2020(Xem: 11925)
Viết vài dòng này để tạ tội với dì tôi đã một thời mù đôi mắt vì tình lụy và nhất là tạ tội với ông Nghị Nguyễn Bá Kỳ vì tôi đã hiểu lầm ông. Hắt hơi là tình hận chứ không phải muốn hù dọa, khoe danh.
05 Tháng Chín 2020(Xem: 14622)
..Mỗi người sống chết an bài? Tin buồn loan tới Anh Hoài đã đi Một tuần Vĩnh biệt chia ly Thanh Hoài, Tường Cát viết chi, nói gì? Sinh hữu hạn, tử vô kỳ? Bạn hiền thân ái sầu vì mất Anh.
05 Tháng Chín 2020(Xem: 11355)
Gió Thu nhè nhẹ vẫy tay chào Nàng Thu xinh đẹp đã bước vào Lá đỏ nghiêng mình soi dòng nước Trăng vàng lộng lẫy giữa ngàn sao
05 Tháng Chín 2020(Xem: 12141)
Xuân đi, Xuân tới bao lần, Nhớ mùa Xuân cũ tần ngần ngóng trông Đất Trời, Biển rộng mênh mông? Niềm vui, hy vọng sẽ không phai mờ.?
04 Tháng Chín 2020(Xem: 10950)
Bây giờ Tháng Chín Mùa Thu Trăng treo đỉnh núi vọng mù tóc bay Biển đời gió đọng mưa lay Cầu mong được phút giây này bình yên...
29 Tháng Tám 2020(Xem: 11079)
. Các Tăng Ni dù không được tập trung cầu nguyện như những mùa Vu Lan trước, nhưng năm nay bà Tâm tin tưởng Thầy, Sư Cô và các vị Sư sẽ trì chú tụng kinh nhiều hơn ở mỗi đêm.
27 Tháng Tám 2020(Xem: 12834)
Cám ơn cháu cho ta giác ngộ Một lạy thôi rực rỡ hào quang Cử chỉ khiêm cung bát ngát sen vàng Ta học Phật, học từ đứa bé.
26 Tháng Tám 2020(Xem: 12673)
Rất muốn ngắm biển đêm bằng đôi mắt Tìm những điều ẩn ý dưới hoang mang Và muốn thấy giữa vô cùng tịch mịch Trăng lạc đường vì gió mãi lang thang.
23 Tháng Tám 2020(Xem: 9327)
Buổi tưởng niệm kết thúc qua phần tri ơn của gia đình “Chúng con vô cùng tri ơn quý Thầy Cô và quý anh chị cựu học sinh Ngô Quyền đã mang đến cho ba chúng con một cuộc đời, một cuộc sống đầy ý nghĩa”.
22 Tháng Tám 2020(Xem: 8748)
Chiếc ghế trang trọng dành cho Thầy vẫn luôn nằm trong lòng mỗi người học sinh Ngô Quyền xa xứ. Chúng con xin hứa sẽ làm tốt để xứng đáng với sự dạy dỗ và thương yêu của Thầy.
22 Tháng Tám 2020(Xem: 13189)
Khủng khiếp ngoài trời lửa bốc nhanh Cali hỏa hoạn đã tung hoành Mây đen chế ngự vùng trời rộng Lửa cháy tràn lan khắp núi xanh
14 Tháng Tám 2020(Xem: 14012)
Ta đã mệt nhoài bao năm tháng Buông tay rủ sạch, ta rút lui. Ta nghe văng vẳng những hồi chuông. Tiếng mõ ngân nga vọng vô thường Khoan thai ta bước vào vô tận Một kiếp phù du chẳng vấn vương.
12 Tháng Tám 2020(Xem: 12574)
Tai nghe chim hót ngất ngây. Hồ Thu in bóng rừng cây muôn mầu. Vui lên xin chớ u sầu! Hẹn ngày tái ngộ bắt đầu thu sang ? Viễn du thế giới thênh thang . Ngày Xưa Thân Ái kiên gan đợi chờ...
09 Tháng Tám 2020(Xem: 11814)
Con tạ ơn Thầy Cô đã cho chúng con qua sông yên bình, cho chúng con có căn bản đạo đức và kiến thức làm người hữu dụng. Ở nơi xa không thể về đốt hương tưởng niệm. Con xin kính gửi đến Thầy cô tất cả lòng kính yêu trân trọng nhất.