Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - TỪ CẦM PHẤN VIẾT BẢNG ĐẾN CẦM BÚT VIẾT VĂN

02 Tháng Mười Một 201212:00 SA(Xem: 25442)
GS. Nguyễn Văn Lục - TỪ CẦM PHẤN VIẾT BẢNG ĐẾN CẦM BÚT VIẾT VĂN

Từ cầm phấn viết bảng đến cầm bút viết văn –

Kinh nghiệm cầm bút

 

27_1_tucamphan-thay_nvluc--large-content

GS Nguyễn Văn Lục


Cách đây khoảng trên mười năm, tôi có viết một bài về giới y sĩ cầm bút, đăng trong một tập san y sĩ. Bài viết đưa ra nhận định không mấy lạc quan về giới cầm bút trong y giới. Đặc biệt có đề cập đến giáo sư Trần Ngọc Ninh - một trí thức hàng đầu trong y giới và có thể trong cả văn giới - về khả năng viết nhiều, đa dạng trải dài trong nhiều lãnh vực của ông. Tôi có cho rằng giáo sư Trần Ngọc Ninh tham bác nhiều lãnh vực quá sẽ loãng, sẽ khó nắm bắt hế; sau này không biết xếp ông vào loại nào - nhà văn, nhà khảo cứu, nhà Phật học hay nhà ngôn ngữ học?

Tôi được nghe kể lại về ông khi còn là sinh viên nội trú, ông đã đọc hết sách về nội trú, khi làm giáo sư thì cũng vậy. Ông bèn quay sang giải phẫu tiểu nhi, trở thành một trong những người đi tiên phong ở Việt Nam trong lãnh vực này. Nhưng biết hết rồi thì chán quá, phải đi tìm cái khác, ông bèn nhảy sang lãnh vực văn học, triết học, Phật học, xã hội học, phê bình Kiều và nhất là trong lãnh vực ngôn ngữ học. Hình như ở trong lãnh vực nào, ông cũng muốn là người khai phá, trổi bật! Dù tuổi đã chín muồi. Khát vọng đọc cũng không nguôi. Ông có thể bỏ ra hai tiếng đồng hồ qua điện thoại nói về một đề tài ông thích thú!

Dù là những nhận xét nhẹ nhàng, tôi cũng có mặc cảm có lỗi của một người cầm bút đối với một bậc tiền bối! Phải chăng đó là sự trót dại của “tuổi trẻ” hay sự háo thắng của người cầm bút?

Nhưng đằng khác lại nghĩ rằng cầm bút mà thiếu lòng tự hào thì thà buông bút! Kinh nghiệm như thế để nhớ đừng chê ai viết dở. “Văn mình, vợ người”, các cụ thường dạy như thế ! Tự hào là đặc sủng của một người cầm bút.

Tôi còn có “trót dại” nữa khi nhận xét thêm rằng có sự nghèo nàn và hiếm hoi trong giới y sĩ khi đi vào văn học bằng cửa chính. Ít có nhà văn, nhà khảo cứu nào trong y giới đáng nể!

Điểm mặt thế hệ cựu trào thì có một số bác sĩ cầm bút như các bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Đình Cát, Nguyễn Trần Huân. Tiếp theo có các bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Thị Lợi, Nguyễn Văn Ba. Tính cách nghiệp dư nơi họ khá rõ.

Đến lượt các bác sĩ như Nguyễn Hữu Phiếm, Nguyễn Tuấn Phát, Trần Ngọc Ninh, Trần Long Hồ, Trang Châu, Ngô Thế Vinh thì đã chuyên sâu hơn và bước hẳn vào mảnh đất văn học.

Sau này, sau 1975, ở hải ngoại thì nở rộ có nhiều người viết theo tình hình chung của văn học hải ngoại. Chúng ta có các bác sĩ như Trần Văn Tích, Lê Văn Lân, Hồ Văn Châm, Nguyễn Thanh Bình, Phạm Hữu Trác, Huỳnh Hữu Cửu, Hoàng Văn Đức, Thân Trọng An, Trần Mộng Lâm v.v…

Nhưng nhận xét làm nhiều người cảm thấy khó chịu khi tôi có sự so sánh một cách “ấn tượng” là: Xem ra việc cầm phấn viết bảng chuyển sang cầm bút vẫn dễ hơn từ cầm ống nghe hay dao kéo sang cầm bút.

Chính tôi cũng không lý giải được minh bạch là tại sao người cầm phấn viết bảng - nghĩa là giới nhà giáo - khi chuyển sang cầm ngòi bút vẫn có sự chuyển nghiệp tương đối không mấy khó khăn và thành công hơn?

Tuy là một nhận xét trung thực dựa trên sự thực nhưng cũng đã làm một vài vị Tu bíp ngứa ngáy khó chịu viết bài phản bác trong số báo y sĩ kế tiếp. Tôi đọc và chỉ cười. Chỉ có một điều tôi khá ân hận như đã nói ở trên là việc phê phán giáo sư Ninh mà đáng nhẽ tôi không nên viết như thế. Sau này, có dịp gặp gỡ và điện thoại trao đổi với ông nhiều lần, ông không hề nhắc nhở và để tâm đến bài viết ấy. Phải chăng đó cũng là sự cao ngạo quen thuộc của giới cầm bút!

Trở lại chủ đề của bài viết này là: Từ cầm phấn viết bảng sang cầm bút viết văn. Câu hỏi đặt ra là tại sao có nhiều người từ bục giảng trở thành nhà phê bình, nhà văn, nhà nghiên cứu?

Hiện tượng xã hội văn học đó hình như không phổ biến nơi các nước tiên tiến như Pháp, Anh, Mỹ. Nhà văn, nhà báo Mỹ rất chuyên nghiệp và là một ngành nghề mà sự chọn lựa không đến từ ngành giáo dục? Các nhà văn, nhà báo, nhà khảo cứu các nước Tây Phương là những người sinh ra để làm nhà văn ngay từ đầu. Họa chăng có những trường hợp họ là nhà báo sau này trở thành những người viết sử như rất nhiều nhà báo đã có mặt trong chiến tranh Việt Nam viết sách như Stanley Karnov, Bernard Fall, Jean Larteguy. Hoặc họ là giáo sư đại học chuyên môn về sử, chính trị như Arthur J. Dommen, Seth Jacop, Sergei Blagov v.v…

Về phía miền Nam, mặc dầu không có thống kê và cũng chẳng có ai rách việc ngồi đếm xem có bao nhiêu người đứng trên bục giảng đồng thời là người cầm bút. Nhưng tôi có thể chắc một điều là đa số người cầm bút xuất thân từ môi trường giáo dục - kể cả trung học và đại học. Điều này chỉ đúng ở miền Nam từ 1955-1975 mà không đúng ở các giai đoạn trước đó.

Thật vậy, nhìn lại giai đoạn tiền chiến thì lại khác hẳn. Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nhất Linh, Thạch Lam, Khái Hưng, Vũ Trọng Phụng, Tú Mỡ, Văn Cao, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nam Cao, Nguyên Hồng, Huy Cận, Nguyễn Tuân, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Bính, Trần Tiêu, Tô Hoài đều là những nhà văn, nhà báo, nhà phê bình chuyên nghiệp. Họ chọn đi vào viết văn, làm thơ, làm báo với tính cách chuyên nghiệp- nghĩa là sống bằng ngòi bút. Vì thế khi viết về dòng văn học này, tôi đã không ngần ngại gọi là văn học thế hệ 1932-1945 là thế hệ tiểu thuyết.

Tình hình sinh hoạt trong Nam khác hẳn giai đoạn đi trước nó. Nó có đặc trưng nổi bật như một hiện tượng xã hội văn học là người cầm phấn rồi cầm bút phần đông sống bằng đồng lương dạy học, hay công chức mà viết chỉ là nghề tay trái có tính cách “nghiệp dư”.

Tất cả những vị có tên dưới đây đều sống bằng nghề dạy học và không mấy ai có thể sống bằng nghề cầm bút. Phải chăng lý do tài chánh cắt nghĩa được phần nào hiện tượng cầm phấn và cầm bút cùng một lúc? Nó phơi bày ra phần nào tính cách khắc nghiệt của nghiệp cầm bút trước 1975 và bây giờ ở hải ngoại?

Khi người cầm bút không thể tự nuôi sống mình bằng ngòi bút thì hãy khoan nói tới một nền văn học hay một mảng văn học! Những mơ ước của người cầm bút trong tình trạng hiện nay ở hải ngoại là mơ ước hão huyền chỉ cho thấy hiện tượng lão hóa trong giới nhà văn, lão hóa đề tài chẳng khác gì như dòng suối khô cạn trong sinh hoạt văn hóa, văn học, báo chí hiện nay. Nó bày ra cảnh nhu cầu của một số người viết thì có, nhưng nhu cầu người đọc không có. Viết cho ai là một câu hỏi gay gắt đối với người cầm bút bây giờ. Sinh hoạt văn học như những căn phố đìu hiu hay như buổi chợ chiều miền quê một thuở nào!!

Văn học miền Nam trước 1975 sở dĩ tồn tại và phát triển được là nghề cầm phấn hay nghề cạo giấy nuôi nghề cầm bút như anh què cõng anh mù tựa nhau mà sống. Đó là một nền văn học “khuyết tật” trong đó mối tương tác chênh lệch giữa người đọc, người viết, nhu cầu đọc viết và thị trường sách vở.

Mặc dầu vậy, nghĩ lại thời điểm trước 1975, nó cũng không khỏi làm chúng ta đã một thời cảm thấy hãnh diện vì xem ra nó vẫn phong phú, đa đạng, trù phú, sinh động, tươi mát, phủ bóng mát của những giây phút thoải mái và tự do.

Đó là một nền văn học đủ lý lẽ để đáng tồn tại và đem lại món ăn tinh thần cho dân miền Nam. Công ấy, bất đắc dĩ, ngoài ý muốn phải dành cho những ai đã từng đứng trên bục giảng.

Họ là yếu tố tác thành dòng chảy văn học miền Nam trong suốt gần 20 năm. Họ chẳng những là những ngôn sứ đi rao giảng hạt giống giáo dục nhân bản, tự do và khai phóng cho toàn miền Nam họ mà còn là thày dạy của nhiều thế hệ bằng ngòi bút của họ.

Họ là những ai, kể ra sao hết! Hãy kể tên một số vị tiêu biểu như một lời tri ân.

Tỉ như các cụ Nguyễn Khắc Kham, Nghiêm Toản, Nguyễn Đăng Thục, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê, Lê Văn Lý, Võ Hồng, Nguyễn Duy Cần, Cung Giữ Nguyên, Vũ Hoàng Chương, Vũ Ký, Phan Khoang, Phạm Hoàng Hộ, Trần Văn Khê, Tăng Xuân An. Tuyền những “đỉnh cao trí tuệ”, có chỗ ngồi trên chiếu văn học! Giới tu bíp ở trên không sánh kịp!

Dưới thì có các cụ trẻ hơn như Nguyên Sa Trần Bích Lan, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Nam Châu, Vũ Khắc Khoan, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Kim Định, Lê Thành Trị, Lê Huy Oanh, Trần Văn Toàn, Nguyễn Khắc Hoạch, Hoàng Khắc Thành, Võ Thu Tịnh, Thanh Lãng, Lê Hữu Mục, Bửu Cầm, Phạm Văn Diêu, Thái Văn Kiểm, Võ Long Tê, Trương Bá Cần, Đỗ Trọng Huề, Phạm Cao Dương, Nguyễn Sỹ Tế, Lê Huy Oanh, Doãn Quốc Sỹ , Nguyễn Ngọc Lan, Đặng Phương Nghi v.v… Đây là những nhà giáo, nhà trí thức, nhà phê bình, nhà lý luận, nhà sử tiêu biểu, sinh động và có tầm ảnh hưởng nhất định trên sinh hoạt văn học của dân đô thị miền Nam.

Tiếp nối họ là những người đàn em, trẻ hơn một chút và nghiêng hẳn về phạm vi văn học!

Và nay, đâu đây có thêm tiếng the thé âm sắc phụ nữ chen vào tiếng ồ ồ của đám đàn ông! Đó là những nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhạc sư như Nguyễn Mộng Giác, Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Trọng Văn, Lê Thanh Hoàng Dân, Nguyễn Nhã, Quách Thanh Tâm, Nguyễn Khắc Ngữ, Trương Bá Phát, Nguyễn Văn Hầu, Nguyễn Văn Xuân, Trần Đăng Đại, Nguyễn Tuấn Anh, Phạm Phú Minh, Nguyễn Khắc Cung v.v…

Xét ở bình diện của một lớp sinh viên Triết mà tôi theo học. Anh em cũng đếm ra được có bảy người trên tổng số 30 người có đeo theo bên mình nghiệp cầm bút. Tỉ lệ 25% là một tỉ lệ lớn lắm. Phần tôi ráng chen chân vào trong số đó. Nhưng như bất cứ chuyện gì trong đời sống, tiền là yếu tố quyết định. Nợ cơm áo trả cho xong rồi mới đến nợ nhà, nợ văn chương chữ nghĩa.

Từ người đứng trên bục giảng như một người thày đến việc cầm bút. Niềm hãnh diện ngang nhau.

Tôi nghiệm ra rằng ngoài chút năng khiếu viết, người cầm bút phải đọc rất nhiều. Vốn đọc đi đôi với vốn viết. Không thể có thiên tài nếu không có tiền bối.

Điều thứ hai tối quan trọng, nếu không tôn trọng sự thật và đi tìm và bảo vệ sự thật thì tốt hơn hết không nên cầm bút. Trong cái nguyên tắc trên, mỗi người cầm bút có những “trăn trở” riêng. Nhu cầu viết của tôi có một “ám ảnh bệnh hoạn” là viết lại, sửa lưng những cái gì người ta viết sai hoặc cố tình ác ý viết sai.

Trở lại vai trò của người cầm bút trong giai đoạn này thì nét đặc trưng của họ là tinh thần dân tộc trong những nhức nhối của cuộc chiến, nhưng cũng không thiếu nét khai phá và tìm tòi. Từ nay văn học đã nay đã đổi mầu. Nó không còn là mầu hồng, nhưng có bi kịch suy nghĩ, có dấn thân, có khắc khoải.

Cường độ chiến tranh gia tăng thì văn học đổi theo. Vai trò các nhà giáo trong vai trò nhà văn, nhà phê bình, nhà nghiên cứu xem ra không thích ứng kịp với khủng hoảng chính trị quân sự đang xảy ra từng ngày. Vai trò nhà giáo-nhà văn dần lu mờ.

Thay vào đó là lớp trẻ, sinh viên - không tên tuổi, không thành tích, ngay cả không giỏi nghề viết lách - xuất hiện. Họ làm thơ viết văn không phải để giải trí – Mà họ coi văn học như thứ văn nghệ đen, nói lên tiếng nói bất lực, chán nản, mệt mỏi và mất hy vọng. Đó là giai đoạn chót của cuộc chiến trước 1975.

Viết phác họa lại một vài nét của nhà giáo cầm phấn trên bục giảng và rồi cầm bút viết văn, người viết bài này thấy rằng đó vẫn là những vai trò cao quý nhất mà một xã hội cần phải có ở thời điểm 20 năm miền Nam và cả bây giờ.

 27_2_tucamphanviet-thaynvl-large

Thầy Cô và ChsNQ tham dự buổi ra mắt sách của Thầy NVL tại Cali tháng 8, 2010

 

 

07 Tháng Giêng 2010(Xem: 71311)
Cho tôi nhìn thấy nụ cười, Ở trên môi những cuộc đời tối tăm. Cho mây về phố trưa nằm, Làm mưa trôi hết lỗi lầm ra sông.
27 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 75884)
Cúi xuống bờ dậu nghe nao nao Mẹ ngày hè cũng như tháng giá Ngẩng lên thấy mồ hôi ướt áo Vai mẹ gầy như cánh hạc xa
26 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 73975)
Nhắc lại năm xưa tuổi còn thơ dại Áo trắng tan trường kẻ đón người đưa Một thoáng thầm yêu giấu trong sách vở Ấp ủ lâu ngày hoa mộng thành thơ
26 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 75104)
Mùa xuân nghiêng bờ vai Ngắ m đào mai rực rỡ Trắng tinh chùm hoa đại Tỏa ngan ngát mùi thơm
19 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 32494)
Có những cá tính, những sở thích hôm nay bắt nguồn từ thời còn ngồi ở ghế Trung học được các Thầy Cô truyền dạy nhiều kiến thức. Như lớp Tứ 1 (9/1) nk 69-70 của chị Võ Thị Ngọc Dung chẳng hạn cả lớp mê thơ và đã tập tành làm thơ từ một giờ Quốc Văn sôi nổi, lý thú của Thầy Nguyễn Văn Phú.
18 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 76793)
Anh về cõi trời mây Niết bàn muôn tia sáng Nghiệp chướng hết buộc ràng Nơi phương trời giải thoát
18 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 74312)
Mỗi người một hướng đi Tôi ra ngoài sương gió Trung Nam phân nhị Kỳ Xuân Thu đồng nhất Ngộ
17 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 59612)
Ngày hay tin bạn mất Mây tím buồn rưng rưng Hai phương trời cách biệt Ôi tiếc nhớ vô cùng
10 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 74108)
Trên đường về lặng lẽ Ôm nỗi buồn trong tay Đông ngâm bài thơ cũ Mắt lệ nhòa không hay!
09 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 77069)
Rồi cơn đau buốt niềm riêng Anh sa trường bước vào miền chiến chinh Chờ anh mòn mỏi chờ anh    Bóng khuya vàng khuyết nửa vành trăng nghiêng
04 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 83279)
Áo trắng bây giờ xa thật xa, Gối mộng em vào giấc mơ hoa, Anh vẫn cô đơn đời sương gió, Vàng Thu áo trắng đã nhạt nhòa....
03 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 84364)
Sông buồn vẫn bóng hàng dừa Sóng tình lạc lõng đong đưa nỗi sầu   Mình em ngồi đếm vì sao Sương khuya bạc áo hồn đau khóc thầm
01 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 82584)
Mười bảy năm sau tôi trở lại Nhà cũ, vườn xưa ̣đổi khác rồi Giòng sông thơ ấu không còn nửa Trăng buồn lơ lững...bóng ̣đơn côi...
29 Tháng Mười Một 2009(Xem: 86263)
Em nghĩ cô như dòng sông rộng Ôm nước về chở nặng phù sa Đắp vào em chỗ bờ nông cạn Kiệt sức mình sông vẫn thiết tha
28 Tháng Mười Một 2009(Xem: 92134)
Có một người gõ cánh cửa thời gian* Thấy tháng ngày qua bỗng nhiên dừng lại Thấy nắng hè không còn trên đường cũ Một chút mùa vàng đã bước vào thu.
28 Tháng Mười Một 2009(Xem: 88462)
Tôi trở về đây vào cuối Thu Phi Trường còn đó, gió vi vu Rừng cao su nắng xuyên cành lá Đất đỏ hôm nào thấm giọt mưa
27 Tháng Mười Một 2009(Xem: 82516)
Mùa thu nắng hao gầy trên tán lá Hong chưa khô tóc cỏ ướt sương mù Mây bay về chập chùng không vội vã Gió heo may qua đường vắng vi vu
27 Tháng Mười Một 2009(Xem: 82540)
buổi sáng mùa thu bất ngờ về phố chở buồn ren rén quá giang chở ký ức xa chở mất mát chìm
23 Tháng Mười Một 2009(Xem: 63105)
Em về, bỏ lại vầng trăng Cho tôi ngồi ngắm mỗi lần thu sang Bến tình lững chiếc đò ngang Bến đời tôi ngập lá vàng... chờ em!
23 Tháng Mười Một 2009(Xem: 63691)
Ta vẫn trải sầu theo tiếng thơ Em đi mắt lạnh mấy thu chờ Đường tình em bước thênh thang quá Nhớ giữ dùm ta ánh mắt xưa!
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 81015)
Mùa thu về hai phương trời cách biệt Lá bên nào cũng vàng úa như nhau!
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 82351)
Nghiêng câu lục bát cho đầy Cho Thu thêm ấm cho dài nhớ thương Đêm nầy nghiêng sợi mưa tuôn Nghiêng qua cho đổ lá buồn Thu ơi!
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 83585)
Mùa thu ơi! khoan đi chờ ta với Xin ít mây, xin ít nắng hanh vàng Xin một tí hương thầm nơi hoa cúc Xin nửa vầng trăng rất đổi dịu dàng
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 84664)
nợ tình mỏng, mà nặng đeo mỗi thu như mỗi dày theo tuổi đời hơi may gợn, nhắc bồi hồi một bờ mây, đã, cuối trời quan san...
18 Tháng Mười Một 2009(Xem: 100148)
Chỉ còn vài ngày nữa là thành phố Adelaide, nơi tôi đang cư  ngụ sẽ vẫy tay chào mùa đông để chính thức bước vào mùa xuân. Ngày đã trở nên dài ra và trời đã bắt đầu ấm áp trở lại.
18 Tháng Mười Một 2009(Xem: 93848)
Cầm tờ thư của cô tôi ấp nhẹ vào ngực. Ơi! cô giáo nhân ái còn hơn bà tiên trong thần thoại đã dang tay cứu tôi trong nhiều lần khốn khó. Thời gian đi qua thật lâu rồi nhưng tất cả những gì về cô tôi đều nhớ. Bảy năm trời lớn lên từ một mái trường nên mãi mãi ngôi trường Ngô Quyền thân yêu ấy là một ngăn nhớ êm đềm trong quả tim tôi.
16 Tháng Mười Một 2009(Xem: 63575)
                       Đông về lá rụng sương rơi Nhớ anh em thấy bồi hồi ngày qua......
12 Tháng Mười Một 2009(Xem: 79749)
Về bên dòng Đồng Nai Thăm người em xứ bưởi