NGUYỄN XUÂN HOÀNG vs ELISE TVL
Chủ blog rủ:
– Giỗ đầu NXH, xin cho một bài vui vui.
– Giỗ vui? OK.
Một mùa hè năm nào quên mất tiêu rồi, chị Ly rị mọ chuyển mấy lần xe điện để về Sartrouville, quyết tâm tìm cho ra đường Vaudoire. Hai chị em gặp nhau mừng rối. Trên băng ghế kê dưới gốc cây táo chua ở vườn sau, không biết bao nhiêu là chuyện cũ được khui lại để cười, có cả hai ba đợt im lặng để ngậm ngùi nữa. Sau cơm trưa đạm bạc trứng gà chiên củ hành tây uống nước rô-bi-nê, chị nói:
– Mình ra ngoài đi. Ngồi ở nhà nói tầm bậy tầm bạ một hồi coi chừng buồn nhiều hơn vui.
Tôi đề nghị đi theo lộ trình lượt về của chị.
– Sẵn tiện em đưa chị về luôn. Mình đi RER ra Charles de Gaulle Étoile rồi lấy ligne 2 hướng Nation nhe. Dọc đường muốn ghé đâu thì ghé. Chị có định làm gì… đặc biệt?
– Ư… đi mua chút đồ cho con Gi. Em có muốn gì chị mua cho?
Gì kỳ vậy? Em muốn gì thì em tự mua sao lại chị mua cho? Hơi thắc mắc nhưng ngậm tăm. Chị Ly, sau nhiều năm không gặp, không có mấy tí thay đổi. Vẫn giọng nói ngộp hơi, âm cười giòn, rân rân dài dài. Hai mí mắt mỏng kẻ chì đen rất khéo, vẫn màu son hồng vôi ánh một lớp bóng. Có vẻ như giờ chị nói nhanh hơn vội hơn nhiều hơn. Chị cũng cười giòn hơn. Tiếng em cười theo đuổi mãi hồn anh/ tiếng em cười ôi quên làm sao đành… (Một Mình, thơ NXH). Hẳn là đang thân an tâm lạc.
Hai chị em đi loanh quanh qua các tiệm bán quần áo trẻ em. Lùng sục cả khu Barbès. Chị quơ từng xâu đủ loại, đủ kích cỡ, màu sắc trung tính.
– Chị mua đồ trẻ con cho ai mà gom tá lả vậy?
– À, con Gi nó có bầu. Chưa siêu âm.
Gi là con gái út. Tôi biết ba đứa nhỏ từ hồi thằng con trai lớn tên Dan của chị chào đời trong căn nhà có ba số bốn ở đường Võ Di Nguy, sau đó là Mi và Gi. Họ dọn sang Chi Lăng rồi Kỳ Đồng, chỗ nào tôi cũng mò tới chơi cho đến lúc cả nhà sang Pháp định cư thì hai chị em mất liên lạc.
Tất cả những thứ tôi vô tình hay cố ý cầm lên ngắm nghía trong các cửa hàng đều được chị gộp lại mang ra quầy tính tiền, trong đó có cả một cái ly bằng sứ trắng chạm hình nghêu sò ốc hến màu xanh ngọc để cắm bàn chải đánh răng. Đại khái toàn ba cái thứ lặt vặt dùng trong nhà. Chính vì vậy tôi thường khi nhìn thấy những vật kỷ niệm của chị quanh quẩn trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Không ngờ đó là lần sau cùng được gặp chị Ly. Ngu ghê. Thân chị bất an, tâm chị náo động mà tôi không biết. Khoảng nửa năm sau thì nhận được tin chị mất vì ung thư phổi, chưa kịp thấy mặt cháu ngoại – mà chắc chị cũng tính vậy rồi.
Ở xa, bàng hoàng bán tín bán nghi, tôi lập tức gõ điện thư cho chị.
Chị Ly,
Em nè! Chị mà trả lời mail này thì em… té đái.
NgH
Tôi hồi hộp chờ mấy ngày liền cho đến khi nhận được mail của con gái.
…hôm qua con đi đám tang dì Ly, có cậu Hoàng bay sang từ bên Mỹ. Hai cậu cháu dẫn nhau đi ăn trưa và uống cà-phê. Cậu nói từ đàng xa nhìn thấy con cậu tưởng mẹ.
Chị Ly là Elise Trần Văn L., ái nữ của một thương gia thành đạt vốn là bạn của anh Hai tôi. Chị học trường Pháp, sau theo sư phạm Đà Lạt nơi chị gặp anh Nguyễn Xuân Hoàng cùng đi ban Triết (khóa 1959-1962). Trai tài gặp gái cũng tài, chữ bây giờ người ta nói hot boy trùng phùng hot girl. Trong những năm 60 anh Hoàng làm thơ rất sung. Những Mang Mang, Bài Luận Làm Tại Nhà, Một Mình, Làm Quen, Bài Giã Biệt, Nụ Hôn, Nói Thầm Với Một Người… êm như lụa, mềm như nhung.… tóc mun dài sợi nhỏ là mắt em soi vào hồn tôi xui hai đứa mình chia tay – vậy là khu rừng hoang sương mù vừa đánh mất con chim vành khuyên bé bỏng để bây giờ nằm nghe thác đá reo hoài khúc hát ăn năn… Vậy đó. Mướt rượt. Đà Lạt cũng là bối cảnh của tiểu thuyết Mù Sương (1966) làm lăn tăn không biết bao nhiêu là em, trong đó có tôi.
Cả hai anh chị tốt nghiệp với hạng cao; ra trường anh dạy Ngô Quyền, Biên Hòa sau chuyển về Pétrus Ký; còn chị, trường nữ Lê Văn Duyệt. Tôi là học sinh môn Triết của chị năm lớp Đệ Nhất; anh Hoàng là bạn của chị Mười. Dây mơ rễ má lòng thòng nên hai gia đình thân thiết đến mức anh Hoàng gửi em gái Hải Yến và cháu gái Thùy Dương ở trọ nhà tôi mấy năm trời để đi làm và đi học. Má bỗng trở thành mẹ chiến sĩ, hân hoan nhiệt tình lo cho cả đám.
Sau Mù Sương Nguyễn Xuân Hoàng thôi mang mang và bắt đầu… bốc hỏa với Khu Rừng Hực Lửa (1972) rồi Kẻ Tà Đạo (1973). Thời kỳ này hai anh chị hục hặc ra trò, mạnh ai nấy thay phiên nhau chạy về méc má. Là má của tôi á.
– Má, coi con Ly nó quào con nè.
– Má, coi anh Hoàng bóp cổ con nè.
Bà già ứ hự:
– Tụi bây lớn rồi, có con có cái còn bày đặt đánh lộn…
Họ chia tay. Đoạn sau chuyện tình hai phía hình như cũng hơi đèm đẹp nhưng tôi không rõ chi tiết. Chỉ có một lần được anh dẫn về cái phòng thuê trong cư xá Đô Thành, giới thiệu đây là chỗ ở mới của đàn ông độc thân; cơ mà… trong nhà tắm có treo quần áo lót phụ nữ.
Do mấy người đàn ông trong gia đình tôi người thì nhậu, người thì tâm thần, kẻ thì gia trưởng, chưa tính hai ông tập kết ra Bắc không chắc uy nghi lẫm liệt cỡ nào, Nguyễn Xuân Hoàng trong mắt nữ sinh 16 tuổi là một người đàn ông hoàn hảo: cao to, khỏe mạnh, đẹp trai, phong trần, hay chữ. Có dạo tôi tưởng tôi yêu người đàn ông có vợ là Elise Trần Văn L. chứ ai, nhưng chị Mười tôi nói:
– Coi chừng đó, không phải tình yêu đâu; mầy lớn thêm chút nữa rồi biết.
Má tôi tỉnh táo đọc ca dao:
– Rau răm đất cứng dễ bứng khó trồng
Dù thương cho lắm cũng chồng người ta
Khi gặp lại Nguyễn Xuân Hoàng năm 2000 ở San José thì tôi đã lớn thêm hung rồi, làm rẫy trồng rau bứng rau cũng lắm; còn anh đang vui sống đoạn sau, đã bay bay trên mây (Người Đi Trên Mây, 1987), đã vô tích sự (Tự Truyện Của Một Người Vô Tích Sự, 1987), đã lang thang hào hển sa mạc (Sa Mạc, 1989), đã lấm lem những Bụi và Rác (1996).
Tháng 9 năm 2014 sau một thời gian bị thập diện mai phục đến phải ngọa hổ tàng long ở Standford, người hùng đã nhắm mắt xuôi tay buông cả Ỷ Thiên kiếm lẫn Đồ Long đao.
Ăn đám giỗ tới đây xin kết thúc. Bây giờ đốt nhang.
Trần Thị NgH
Châtenay-Malabry, 09.2015