VÕ NGUYÊN GIÁP – ĐIỆN BIÊN PHỦ
VÀ CHAI RƯỢU WHISKY (Kết)
"Những tổn thất của đôi bên trong trận Điện Biên Phủ“
Một cuộc chiến kéo dài 7 năm, 7 tháng, 1 ngày. Một cuộc chiến đã để lại những vết thương và con số thương vong khó có thể hàn gắn lại. Nhà thơ Nguyễn Huy Tưởng, sau khi tham quan chiến trường Điện Biên Phủ đã ghi lại như sau: Điện Biên lẫn lộn giữa hoang vu và bàn tay người, giữa gian khổ và cố gắng, giữa hỗn độn và tổ chức, giữa chiến tranh và xây dựng, giữa cái cổ sơ (trâu bò, lợn...) và cái khoa học (máy cầy, điện), giữa cái đang lùi và cái đang lên, giữa cái nghèo nàn túng thiếu và cái tương lai đầy triển vọng, tất cả đều ở trong một sự hỗn độn, ngổn ngang, chờ đợi, vươn lên...”
Một cuộc chiến đã tiêu hao hằng bốn trăm ngàn sinh linh và hàng tỉ bạc mà cho đến nay chưa ai biết rõ con số đích thực là bao nhiêu?
Đó là những con số làm phiền, làm chúng ta phải suy nghĩ.
Cùng lắm, nếu may mắn có được những con số thì vẫn là những con số ảo, số âm, số trừ.
Một người chết hay trăm người chết có thay đổi gì được bộ mặt của chiến tranh? Có những người bên kia sợ Hòa Bình, thì cũng có những người sợ những con số như bóng ma.
"Những bóng ma của mẹ liệt sĩ đội mồ lên đi kiện”
(Thơ Nguyễn Duy).
Cho nên, những con số chính thức vẫn là những con số đáng nghi ngại nhất.
Đã có bao nhiêu binh lính của hai bên đã bỏ mình trong trận đánh cuối cùng này?
Đặt câu hỏi này, tôi giật mình khi đọc lại một đoạn văn phân tích của Claude De Groulet về tâm tính người Việt Nam với một số hệ thống ý niệm mà người Tây Phương không cách nào hiểu được được.
Hiểu được tâm tình và những khái niệm này, hiêu được tại sao các nhà quân sự Việt Minh coi sự sống con người chỉ là phương tiện thay vì là cứu cánh. Những khái niệm của người Việt bắt đầu từ những khái niệm hoàn toàn trừu tượng ở bình luận lý luận : Chẳng hạn, khái niệm giữa tròn và vuông, giữa hỏa hợp và hỗn loạn, giữa trật tự và vô trật tự.
3737 Claude de Roulet, Ibid, trang 18
Đối với người Việt Nam, những khái niệm trên không dứt khoát biện biệt chẳng khác gì giữa âm và dương như một cặp. Vì thế, thái độ ứng xử của người Việt Nam làm cho người Tây Phương trước một số vấn đề làm họ cảm thấy bối rối, hoang mang, khó hiểu.
Chẳng hạn thái độ thản nhiên, (indifférence) của người Việt Nam trước những đau khổ và sự mất mát!! Và người Tây Phương đặt giả thiết phải chăng cái chết đối với họ hình như có một sức mạnh bên trong để kiềm chế được hay có được một sự thanh thản tâm hồn?( Sérénité d,âme)?
Nói cao xa một chút thì người Á Đông có một số khái niệm về vũ trụ, về không gian, thời gian khác người Tây Phương. Về vũ trụ, họ nói đến sự tuần hoàn , hòa hợp, sự có đi, có về theo khái niệm hình tròn (conception circulaire) thay vì đường thẳng . Đối với người Tây phương sống là một khởi điểm và chết là điểm tận cùng, chỉ có một hành trình đi và tới không có khả năng trở về.
Vì thế, chết đối với người Tây Phương là một bi kịch con người, một mất mát không bao giở lấy lại được .
Nhưng đối với người Việt Nam, từ một khái niệm có đi, có về, cuộc sống với nhiều gian truân khổ nạn, kiếp người sống không khác gì trâu ngựa, người Việt tục hóa, bình thường hóa những khái niệm và biến nó thành một sự kiện, một quy luật của cuộc sống như thế sống là phải chấp nhận những khổ đau, mất mát là như thế.
Thái độ thản nhiên (Indifférence) trước mọi tình huống nói cho cùng là phi nhân bản nhất, chẳng những chẳng hay ho gì mà đáng nguyền rủa nhất.
Tướng lãnh Tầu, tướng lãnh Việt như tướng Giáp đều coi cái chết người khác chỉ là phương tiện- cho nên chết bao nhiêu cũng được- Cái thắng cái thua nó nằm ở chỗ này!!
Cho nên, không lạ gì khi áp dụng chiến thuật biển người, không một vị chỉ huy quân sự nào lên tiếng phản đối. Cũng không lạ gì khi một đổi lấy năm vẫn được coi la chiến thắng. Thắng đối với những vị ấy là cuối cùng là cắm được lá cờ, còn tất cả mọi sự hy sinh là lẽ tất nhiên.
Nói dến chiến công thì có thể ai cũng biết rồi .. Nhưng nói đến những tổn thất thì cho đến giờ phút này, phía Việt Minh vẫn chưa bạch hóa ra bên ngoài .. Mọi ghi chép về tổn thất ở đây về phía Việt Minh chỉ là phỏng đoán mà thôi ..
- Phía quân đội Pháp thì tương đối minh bạch rõ ràng:
Giữa giai đoạn từ 20/11/1953 đến 7/5/1954, có tất cả 15.709 đồn trú tại Điện Biên Phủ.
Cho đến ngày 7/5 thì số binh đội Pháp chỉ còn lại 10.133 ơ/ Điên Biên Phủ và 1588 ở căn cứ Isabelle, công chung là 11.721 mà trong đó có 4.436 bị thương . Trong số bị thương có 858 người được coi là bị thương nặng. 858 người này đã được Hồng Thập Tự di chuyển đi với sự thỏa thuận của Việt Minh.
Số còn lại là 10.863 người trong đó có 3.578 bị thương .. Và chỉ 4 tháng sau con số 10.865 người này thực sự còn sốngm sót, là 3.290 người.
Như vậy còn lại 7.573 người hoặc đã bị chết trong lúc di chuyển, hoặc ốm đau bệnh tật không thuốc men, hoặc bị giam giữ tại các trại tập trung, hoặc trại cải tạo mà không bao giờ được chính thức trao trả cho Pháp . Tỉ lệ chết trong các trại tù là 60.
Như vậy chính thức khi tàn cuộc chiến, người Pháp chết và mất tích khoảng 4000 người ..c'est la marque du totalitarisme. La signature de l'idéologie. Cette absence de sentiment, de compassion, d'humanité, est caractéristique de la sauvagerie idéologique propre au xxe siècle. L'histoire de l'humanité est riche d'actes de sauvagerie, qui étaient des actes de vengeance, de haine exacerbée, de conquête du pouvoir par un individu ou un clan.
Ici il s'agit d'une haine déshumanisée, dépersonnalisée. Il s'agit de la mise en œuvre méthodique, dépourvue de tout état d'âme, d'un plan minutieusement défini par des instances supérieures. Boudarel n'a fait qu'obéir à ces instances supérieures: l'appareil communiste international, représenté par le parti communiste français, et un temps, par délégation, par le parti communiste vietnamien. On connaît cette défense: je n'ai fait qu'obéir. Cela n'enlève rien à la responsabilité personnelle, mais c'est absolument vrai: Boudarel n'a fait qu'obéir, et toute l'horreur de son action vient précisément du fait qu'il a obéi, qu'il a méticuleusement obéi, en toute conscience de ce qu'il faisait.
On connaît les textes du Viêt-minh, très précis, concernant le traitement des prisonniers de guerre, leur «rééducation» et leur libération. Boudarel les a suivis à la lettre. Si l'on en croit les témoignages de ses victimes qui ont connu d'autres camps que le camp 113, il est même le seul responsable de camp à avoir suivi à la lettre les consignes du Viêt-minh (en en rajoutant un peu pour être sür de ne pas être en dessous de ce qui était demandé). Les responsables viets étaient généralement moins déterminés dans leurs «cours politiques», soit parce qu'ils ne voyaient pas l'intérêt de convertir des moribonds, soit parce qu'ils jugeaient impossible de convertir réellement les « soldats de l'impérialisme», soit parce qu'ils voulaient libérer leur pays mais ne croyaient pas à la phraséologie communiste.
Boudarel, lui, y croyait dur comme fer. Il était l'apparatchik idéal.
Il n'était pas un soldat. Il n'était pas de ces soldats français qui avaient déserté pour se mettre au service du Viêt-minh. Il n'était pas un des soldats blancs d'Hô Chi Minh. Boudarel ne s'est jamais battu. Il était un fonctionnaire du régime. Il n'a pas pris les armes contre l'armée française. Il n'a même jamais levé la main contre un soldat français.
Il n'a cessé de le dire pour sa défense. Mais c'est ce qui l'accuse de la façon la plus claire. C'est là qu'est le crime contre l'humanité chimiquement pur, sans lien avec des crimes de guerre. Boudarel a nié l'humanité des prisonniers français, ses compatriotes, il les a dépouillés de toute dignité humaine, il les a fait crever comme personne ne ferait crever son chien, et pendant qu'ils crevaient, ils devaient encore chanter les louanges du communisme, et subir l'atroce dialectique marxiste-léniniste.
La différence entre les camps communistes et les camps nazis est là. Les tortionnaires nazis n'avaient pas d'instructions pour entreprendre une absurde rééducation de leurs prisonniers voués à la mort. Ils ne leur demandaient pas de célébrer les bienfaits du nazisme. Il n'y a eu aucun Boudarel dans les camps nazis. C'est pourquoi le procès Boudarel aurait dû aboutir. Non seulement pour condamner un tortionnaire particulièrement inhumain, mais pour préciser la ju
Và khoảng 7000 người đã chết trong nhà tù cộng sản hoặc mất tích. Vậy mà tôi được đọc một bài viết: Lòng nhân đạo của ta, của đại tá, PGS Trần Lưu Khôi .
38Điện Biên Phủ qua những Hồi ức, trang 137.
Tướng Võ Nguyên Giáp điều động các đại đoàn 304,308, 312, 316 và 351 cộng chung với các đơn vị hậu cần là trên 100.000 người.
Theo ước tính của Bernard Fall thì có khoảng 8000 binh đội Việt Minh và 2000 binh đội Pháp được chôn vùi rải rác ở Điện Biên Phủ. Bernard Fall chỉ định chính xác hơn là xác chết của Viet Minh nằm rải rác tại căn cứ Beatrice và Gabrielle trên đồi Eliane hoặc tại giao thông hào ở Huguette, Claudine và Isabelle.
39 Bernard Fall Hell in a very small place, trang 448-449.
Về xác chết các binh lính Pháp thì dễ được nhận diện hơn vì thường được quấn trong các vải dù.
Năm 1962, Jules Roy, một sĩ quan trong quân đội Pháp, tác giả cuốn La bataille de Dien Bien Phu, gốc người Algérie có gặp tướng Giáp và yêu cầu ông thu gom các xác chết của người Pháp để chôn vào một nghĩa địa như một tưởng niệm. Tướng Giáp hứa thi hành, nhưng cho đến nay chẳng biết đã thực hiện trọn vẹn chưa ..
Kinh cầu hồn cho những nấm mồ ở Điện Biên Phủ
Tôi nhận ra một điều lạ thường là phần đông người việt Nam coi chiến tranh là giải pháp tối ưu!! Niềm tự hào cũng từ đấy mà ra.
Những người cộng sản, sau chiến thắng Điện Biên Phủ hầu hết đều rơi vào tâm trạng say mê chiến thắng- ivre de victoire-. Theo sử gia Heinz Schuttte, ông đã có dịp phỏng vấn nhiều người ở Hà Nôi thì họ đều có tâm trạng đo" Vì đó là chiến thắng của họ như một thời lãng mạn chính trị.
Nhà thơ Huy Cận nói:
" Ta lãng mạn bởi vì ta yêu nước".
40 Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954-1960.
Sự bộc phát lãng mạn và nỗi mừng của họ có thế hiểu được .. Nhưng một khi nỗi mừng chiến thăng qua đi nhanh thì đọng lại là những mất mát đủ thứ không thể hàn gắn được.
Có thể nào một dân tộc khi hỏi đến niềm hãnh diện chung của dân tộc, chỉ có một câu trả lời ngắn gọn: Chúng tôi là một dân tộc anh hùng vì chúng tôi đã thắng hai đế quốc sừng sỏ nhất: Pháp và Mỹ.
Phải chăng đó là sức sống Việt, Văn hóa Việt, sức mạnh Việt Nam?
Phải chăng đã đến lúc phải tìm ra một mẫu hình văn hóa khác, giá trị hơn, cao đẹp hơn và nhất là tiến bộ và nhân bản hơn !!
Sản phẩm chiến tranh là một sản phẩm lỗi thời mà lịch sử con người còn ghi lại!! Đế quốc
Câu hỏi thứ hai cần được đặt ra là sau chiến tranh còn lại gì?
Phải chăng là những bữa cơm đạm bạc, những vật lộn với đời sống thực tế, những gò bó chặt hẹp kiểm soát về tư trưởng đã cấy mầm cho sự nghi ngờ và tư tưởng phản kháng.
Những người không trực tiếp tham dự vào cuộc chiến dễ có cái nhìn nhân bản, một góc nhìn khác về cuộc chiến mà sự sự tàn khốc của chiến tranh với những xác người chết trở thành mối quan tâm hàng đầu ..
Những mẫu người như Võ Nguyên Giáp trong một xã hội tương lai chỉ là sản phẩm của một xã hội còn kém văn minh, nghèo đói và lạc hậu!
Hãy bắt đầu bằng những tâm tình của một con người nhìn lại cuộc chiến trong chiều kích nhân loại bằng tâm thức cảm thông và lòng mẫn cảm!!!
Nhìn lại quang cảnh Điện Biên Phủ, thật khó mà mường tượng được những gì đã xảy ra ở đó cách đây hơn 50 năm .
Tôi nhìn thấy những lũ người bị cưỡng bách làm lao công chiến trường, trong đó có một số phụ nữ và những người dân miền sơn cước là một đám nô lệ thời đại cộng sản. Con số họ là cả trăm ngàn người với hơn hai chục ngàn xe đạp thồ.
Họ bị bóc lột, bị khai thác sức lực đến tận cùng của sự khai thác. Đói ăn, đói mặc, cực khổ muôn chiều với mưa nắng và bom đạn.
Chả có gì để hãnh diện, chỉ thấy đó là những kiếp người khốn khổ gấp ba bốn lần sự khai thác và bóc lột của thực dân, phong kiến.
Và còn lại số phận những người đã chết, đã hy sinh?
.. Nếu nhìn lại ĐBP, nếu không có những ngôi mộ nằm rải rác đó đây thì người ta không thể mường tượng được trước đây đã xảy ra những cuộc giao tranh ác liệt nơi các địa danh như ngọn Éliane, ngọn Béatrice hay Étienne 1 và 2 .
Làm sao có thể hình dung ra những cụm khói đen bốc lên từ bom Napalm làm cháy đen cả mặt đất? Và những giao thông hào chằng chịt, mặt đất vũng bùn mà nhiều xác chết đã thối rửa, chết ở nhiều tư thế khác nhau. Những lớp hàng thép gai nhiều lớp chằng chịt bị xé rách bởi bộc pha và xác người nắm vắt trên những hàng rào thép gai ..
Trong cái không gian máu lửa ngụt trời huyền thoại trước đây, chỉ còn thấy một nghĩa địa với 500 ngôi mộ ngưới chiến sĩ Việt Minh đang nằm an nghỉ - nơi đây-vĩnh viễn .. Nghĩa địa hình như ở cách xa con đường chính một chút, dưới chân ngọn Éliane.
500 người cùng chung một số phận đã tham dự những trận đánh cuối cùng và đã dành được chiến thắng.
Họ nằm giữa một thiên nhiên an bình, chung quanh cây cỏ xanh rì, cỏ cây đầy hoa lá. Có tiếng chim chóc trong các tàng cây.
Họ là một con số nhỏ trong số 10 ngàn người đã bỏ xác tại nơi đây trong một cái lò sát sinh đã được thi vị hóa ...
Trên ngọn Béatrice, có tấm bia ghi lại chiến công của anh chiến sĩ
Anh Giót phải chăng cũng là biểu tượng anh hùng cần thiết như một Lê Văn Tám của miền Nam sau này? Tôi đọc lại trang ký của đại đội 58 viết về
Nhưng đối với đồng đội
Không có vinh quang mà cũng không có chiến thắng vì cái chết đem lại sự bình đẳng tuyệt đối cho những người nằm ở đây?
Họa chăng chỉ còn lại bi kịch cho những người vợ, người chị, người mẹ- nhất là người mẹ- mỗi lần nghĩ tới con thì lén lau giọt nước mắt vì biết rằng con mình sẽ không bao giờ trở về ..
Ngoài kia, nắng vẫn lên !!
Nhưng chỉ còn lại những người đàn ông, đàn bà vùng cao mà bao đời vẫn oằn vai gánh những khổ nhọc bên cạnh những con trâu ngập bùn tới bụng cho cây lúa mọc lên ..
Cuộc sống của họ từ bao đời vẫn kéo dài cuộc sống giữa những thung lũng, những ngọn đồi, vất vả tát từng gầu nước vào ruộng và chăm sới từng thước đât trước nhà để trồng rau.
Đó chính là những con người mà anh em họ cha ông họ đã từng ghi lại những chiến thắng ở Điện Biên Phủ! Nào họ đã được gì và mất gì? Bao nhiêu lần bác Hồ cho người đến thu thóc gạo "vay", nào đã trả xong chưa? Nợ máu, nợ sức người, nợ cơm gạo thu vén đến tận cùng cực của đồng bào miền sơn cước nào họ có tội tình, ân oán gì trong cuộc đổ máu ấy?
Cho nên, không lạ gì khi áp dụng chiến thuật biển người, không một vị chỉ huy quân sự nào lên tiếng phản đối. Cũng không lạ gì khi một đổi lấy năm vẫn được coi là chiến thắng.
Thắng đối với những vị ấy là cuối cùng là cắm được lá cờ, còn tất cả mọi sự hy sinh là lẽ tất nhiên..
Thật tình tôi không biết phải nói thế nào.
Tướng Giáp và chai rượu Whisky
Như đã nói ở đầu bài viết, tôi xin được trích dẫn phần Epilogue của tướng Peter Macdonald trong sách của ông như phần kết luận về ĐBP.
Ngày hôm nay, phần đông những người tham dự trận ĐBP nay đều đã chết. De Castries chết năm 1991 ở tuổi 85. Langlais tự vẫn cách bằng cách nhảy lầu năm 1988.
Số phận ông là phải thế thôi! Thắng thì như tướng Giáp, thua thì không chấp nhận được! Phải tìm đến cái chết như một giải thoát. Chỉ có điều chiến thắng vinh quang ấy không vượt qua được sự mời gọi quyến của một chai rượu Whisky tầm thường.
Theo tác giả, khi ông rời khỏi Hà nội sau khi đã làm việc và phỏng vấn nhiều lần tướng Giáp thì được yêu cầu ông biếu tướng Giáp một chai rượu Whisky như món quà chia tay.
Một chai rượu Whisky!!. Đối với người yêu cầu là một điều bình thường tự nhiên.
Nhưng đối với ông Peter Macdonald là một điều thật không hiểu được.
Ông cảm thấy rất khó xử, bởi vì một quà tặng như thế thì có khác chi xỉ nhục tướng Giáp? Một khuôn mặt lớn của thế kỷ thứ 20 lẽ nào nhận một quà tặng như một thứ bố thí tầm thường như cho kẻ ăn mày từ một người ngoại quốc.(a trivial handouts)!!!
Theo tác giả, việc biếu tướng Giáp một chai rượu Whisky nó bộc lộ sự nghèo nàn đến tồi tệ của Hà nội.(Thời đểm 1990). Những khách sạn sơn rẻ tiền ở những khách sạn được coi là tốt nhất, chuột chạy khắp nơi trong các nhà hàng, những cửa hàng với những hàng hóa lòe loẹt, lỏng chỏng cho ta cảm giác số phận họ là như thế, những bệnh dịch như luẩn quẩn chung quanh mà nếu xảy ra thì cơ quan y tế phòng ngừa hầu như bó tay. Dân chúng đông đúc sống chung đụng, chen chúc trong những căn hộ nghèo nàn, chật hẹp ..
Như thế mới hiểu được tại sao một nhân vật như thế chỉ đòi hỏi một chai rượu tầm thường!! Một món quà tầm thường cho một ông già mà chiến tích chất đầy những năm tháng đời ông !!
Thật tội nghiệp cho tướng Giáp hay tội nghiệp cho dân tộc Việt Nam!!
Nguyễn Văn Lục.
1
2Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, Điểm hẹn lịch sử, nxb Quan Đội Nhân Dân
3 Bernard B. Fall, Hell in a very small Place, trang 15
4 Hữu Mai, Điện Biên Phủ, Ibid, trang 307
5
6
7
8
9 Georges Fleury, La guerre Indochine
10 Bernard B.Fall, Ibid, trang 390
11
12 Jules Roy, Ibid, trang 216
13 Georges Fleury, Ibid, trang 644
14 ..
15
16 The Battle of Dien Bien Phu, Jules Roy, trang 22
17 Robert J.O’Neill, General Giap, Polotician & Strategist, trang 128
18 18 Robert J.O’Neill, General Giap, Polotician & Strategist, trang 128
19 19 Robert J.O’Neill, General Giap, Polotician & Strategist, trang 128
20
21 Jules Roy, Ibid, trang 278
22 Bernard B. Fall, Hell in a very small place, trang 50
23
24 Georges Fleury, Ibid,
25
26 Bernard B. Fall, Ibid, trang 406
27 Hữu Mai, Đai tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, Điểm hẹn lich sử, trang 391
28 Nguyễn Khắc Viện, Histoire du Viet Nam, trang 230
29 Passing the Torch, A final Adieu, trang 90
30
31
32
33
34 Jules Roy, Ibid, trang 247
35
36
37 Claude de Roulet, Ibid, trang 18
38
39
40 Điện Biên Phủ qua những trang hồi ức, trang 197