VÕ NGUYÊN GIÁP – ĐIỆN BIÊN PHỦ
VÀ CHAI RƯỢU WHISKY (Phần 2)
****Những lý do tại sao chọn Điện Biên Phủ
- Lý do thứ nhất mà tướng Salan, sau đến tướng Navarre thay thế đã chọn ĐBP vì nó gần biên giới Lào, cách nhau chỉ 13 kilô mét. Ngày 20 tháng mười, 1953, nước Pháp đã ký với thủ tướng Lào Souvana Phouma khẳng định sự độc lập của Lào trong Liên Bang Đông Dương. Vì thế Navarre càng thấy có đủ lý do để chọn ĐBP vì thấy có trách nhiệm bảo vệ Lào. Nhờ căn cứ ĐBP, nó có khả năng chặn đường tiến quân của Việt Minh vào đất Lào.
Lý do thứ hai chọn Điện Biên Phủ là chiếm lại một phần đất đã bị Việt Minh đánh chiếm vào cuối năm 1952. Tái chiếm ĐBP trong tay Việt Minh là nắm lại quyền kiểm soát đất Thái, kiểm soát Lai Châu ở phía Đông Bắc, phía Đông Nam với Tuần Giáo, Sơn La và Na Sản và phía Tây với Luang Prabang. Lai Châu là nơi có bộ lạc người Thái do Đèo Văn Long đứng đầu. Đây là vùng đất giầu có vì trồng thuốc phiện và đã hẳn, tướng Võ Nguyên Giáp cũng không ngu dại gì mà không vắt nguồn sữa nuôi quân từ Đèo Văn Long.
Cũng vì vậy mà Navarre đã trình lên chính phủ Pháp một kế hoạch chiếm đóng ĐBP. Nhưng chính phủ Pháp do Joseph Laniel đã không đủ ngân sách tài trợ cho chiến dịch và chỉ mong tìm một giải pháp hòa hoãn như kiểu ở
- Navarre càng tin tưởng hơn khi mở một cuộc hành quân chớp nhoáng xuống Lạng Sơn. Quân nhảy dù Pháp đã làm binh đội tướng Giáp trở tay không kịp và họ đã phá hủy 5000 tấn đạn dược, vũ khí, trang bị khác và sau đó binh đội nhảy dù đã quay về Hà Nội hầu như an toàn với một tổn thất nhẹ nhàng.
Tháng tám 1953, toàn thể binh đội lính Pháp đóng ở Nà Sản đã được không vận về Hà Nội. Na san chỉ là một lòng chảo nhỏ so với ĐBP, với 5 kilô mét chiều dài và 2 kilô mét chiều rộng. Cái lợi thế hơn hẳn ĐBP là nó có nhiều chỏm núi và có thể biến chúng thành những pháo đài kiên cố. Đại tá Gilles còn cho đào nhiều hầm trú ẩn sâu đến 3 mét.
Đây là một cuộc chạy đua giữa Gilles và tướng Giáp tại Nà Sản. Trong khi Gilles lo củng cố công sự ở Nà Sản thì tướng Giáp phải làm sao điều động sư đoàn từ Nghĩa Lộ về Nà Sản. Tướng Giáp phải mất hơn một tháng trời để đi một đoạn đường rừng núi dài 78 kilô mét ngăn cách giữa Nghĩa Lộ và Nà Sản.
Khi tướng Giáp mở cuộc tấn công với đơn vị ưu tú nhất, sư đoàn 308 vào ngày 23 tháng 11, 1952 thì Gilles đã chuẩn bị phòng thủ xong. Máy bay Dakota đã thả dù chiếu sáng và đại bác 105 của Pháp nhờ đó đã đẩy lui các cuộc tấn công của tướng Giáp .. Phi trường Nà Sản rất tấp nập và hữu dụng có thể cho hạ cánh những phi cơ hạng nặng. Trong suốt thời gian chiến dịch, đã có 1750 lượt máy bay tiếp tế xuống Nà sản ..
Đại tá Gilles biết rằng Giáp không thể còn cầm cự lâu. Nhiều vị quan khách đã được mời tới Nà Sản quan sát trận dịa và cho rằng Nà Sản sẽ là nghĩa địa chôn cất bộ đội Việt Minh của tướng Giáp. Bảo Đại cũng được mời tới quan sát và tỏ ra rất
phấn khởi trước những gì ông đã quan sát được.
Tướng Giáp hiểu rõ tư thế của địch. Nhưng ông cố gắng mở một đợt tấn công mới vào đêm 30 tháng 11 rạng mồng một tháng 12, 1952. Những đợt tấn công với hàng loạt dúng cối rót vào các đơn vị phòng ngự và đã có hai chốt của binh đội Pháp bị tràn ngập.
Nhưng sau đó, vào rạng sáng hôm sau Gilles đã phản công và chiếm lại được hai vị trí đã bị mất ..
Việt Minh đã bò sát hàng rào kẽm gai với bộc pha. Nhưng bị thất bại vỉ những bãi mìn và trên không, Dakota thả chiếu sáng và hàng chục binh đôi Việt Minh ngã gục dưới những tràng đạn liên thanh của Pháp trong các hầm trú ẩn bắn ra…
Kết quả là có khoảng hơn 500 bộ đội Việt Minh bị phân thây vì mìn và đạn đại liên của binh độ Pháp.
Phía đại tá Gilles có 12 người bị chết và hơn 30 chục bị thương !! Ông được vinh thăng tướng.
Kết quả về tổn thất trong trận đánh Nà Sản quá chênh lệch ..Nhưng tướng Giáp vẫn tỏ ra binh đội của ông không hề hấn gì!!! Rất là Langlais!! Ông ra lệnh rút quân!!
Phía Pháp mặc dầu đẩy lui được binh đội tướng Giáp cũng tính đường rút quân vì sẽ không chịu nổi áp lực quân sự trong tương lai.
Việc rút quân nầy xảy ra trước mắt binh đội cộng sản, qua mặt tướng Giáp một cách dễ dàng. Trước hết, người Pháp cho phát đi những tin tức yêu cầu gửi viện binh Pháp tới Nà Sản. Và hy vọng truyền tin của Việt Minh bắt được tin tức này. Và sau đó một số lớn phi cơ vận tải đã đáp xuống và làm như thể thả quân xuống ở đợt đầu, nhưng thực ra sau đó là chở quân lên phi cơ vận tải để rút lui.
Và cuộc rút quân đã xảy ra một cách êm thắm, không gặp một sự chống cự nào từ phía Việt Minh.
Theo Jule Roy mô tả chi tiết hơn là cứ 6 phút lại có một phi cơ vận tải đáp xuống và chở người lên. Ngay cả những người Thái hoặc cộng tác với Pháp cả đàn bà, trẻ con cộng chung trên 300 người, mang theo cả nồi niêu xong chảo lên phi cơ. Trên không thì máy bay chiến đấu B-26 quần đảo với súng máy sẵn sàng nhả đạn nếu ở dưới đất có động tĩnh gì. Đại tướng Cogny tuyên bố ở Hà Nội :
« I am happier than I was on the evening of Lang Sơn ». Sự việc này xảy ra một cách êm thắm, theo Jukles Roy chỉ vì là máy truyền tin của binh đội Việt Minh bị trục trặc nên tướng Giáp “ ở xa!” không nhận được tin tức.
10 năm sau, Jules Roy có dịp phỏng vấn tướng Giáp về vụ này, tướng Giáp vừa cười vừa nói:
“Chiến lược của chúng tôi là luôn luôn giữ ở thế chủ động.. Vả lại cũng không có bao nhiêu binh đội Pháp đồn trú ở Nà Sản và khoảng thời gian đó không trùng hợp với những kế hoạch hảnh quân lớn của chúng tôi. Cho nên chúng tôi cho rằng nếu Navarre đã rút quân ra khỏi Nà Sản thì điều đó cũng đúng ý với chúng tôi`.
Và Jules Roy đã kết thúc cuộc phỏng vấn tướng Giáp với một nhận xét:
“This optimism seemed to me to conceal certain spite”
16 The Battle of Dien Bien Phu, Jules Roy, trang 22
Sự chống đỡ biện hộ của tướng Giáp khi nói rằng không có nhiều binh đội Pháp là sai sự thật. Robert J. O’Neill trong General Giap viết:
“The patent falsehood of the notion that ”not very many troops” were within Nasan indicates that this explanation of Giap’s cannot be taken at face value. In the absence of a more plausible reason, it appears that Navarre was able to catch Giap off balance and through good luck and management save the lives of some 10,000 Frenchmen who would otherwise have been in grave danger once the rains had stopped.
10.000 binh đội Pháp đã thoát hiểm sau khi đã đốt phá kho đạn và trang bị của tướng Giáp và rút đi an toàn phải được coi là thành công của Navarre.
17 Robert J.O’Neill, General Giap, Politician & Strategist, trang 128.
Phần tướng Giáp như thường lệ nhận định về trận Nà Sản như sau:
“Ta chủ trương đánh Nà sản do căn cứ bá cáo và tình huống giữa địch và ta lúc đó. Sau cuộc tiến công không thành công, địch lại tăng viện cho Nà Sản, nếu đánh nữa thì không chắc thắng trong khi đó vùng giải phóng của ta rất rộng mà chưa được củng cố, chủ trương đình chỉ cuộc tiến công Nà Sản là chính xác để tích cực củng cố và phát triển những thắng lợi vừa qua”.
18 Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, trang 344
Dù không tiếp tục bao vây Nà Sản thì trong những chiến thắng vừa qua, tướng Giáp cũng tiết lộ cho biết, Vùng mới giải phóng ở Tây Bắc rộng 28.000 kilô mét vuông với 250.000 dân .. Hướng chính Tây Bắc, ta đã tiêu diệt và bắt 6.029 quân địch trong đó có hơn 1000 Âu Phi và nhiều sĩ quan. Ta còn thu được thắng lợi quan trọng ở Phú Thọ, tiêu diệt 1.711, bắt 173. Chúng ta đã thành công trong nhiệm vụ tranh thủ nhân dân và giải phóng đất đai.
19Võ Nguyên Giáp, Ibid, trang 343
Kinh nghiệm chiến thắng Nà Sản càng cho phép Navarre tin tưởng là có thể chuyển một Nà Sản sang Điện Biên Phủ. Trận Na Sàn cho thấy có 10 ngàn binh đội Pháp đồn trú tại đây và đã chống cự một cách mãnh liệt và có hiệu quả chống lại sự bao bao vây của Việt Minh mà quân số đông gấp hai lần ..Và trong vòng ba ngày đêm, quân đội Pháp đã rút lui an toàn bằng đường không vận.
Vì thế, ông đã chỉ định tướng Cogny chỉ huy chiến dịch này.
Nhưng Nà Sản thì không phải Điện Biên Phủ. Vì tại Điện Biên Phủ, tướng Giáp đã chuẩn bị kỹ càng bằng phương hướng đánh chắc, chỉ đánh khi nào biết chắc chắn là sẽ thắng. Phương châm ấy, đại tướng thường tự hào và cho rằng không theo chỉ đạo của các cố vấn Tàu- Một quyết định khôn ngoan và can đảm của riêng ông-.
Nhưng ngoài ra, việc kéo pháo vào trận địa, đào sâu trong sườn núi – vượt sức người- đã là nguyên nhân chính đưa đến sự thảm bại ngay những ngày đầu chiến dịch ĐBP. Ngoài Võ Nguyên Giáp ra, mấy ai làm được !! Trung tá Piroth là người phụ trách pháo binh ở Điện Biên Phủ, ông tin tưởng chắc chắn là ông sẽ đè bẹp đối phương với dàn pháo của ông. Sau khi chứng kiến sự hấp hối của cứ điểm Gabrielle trong sự bất lực. Piroth bưng mặt khóc và nhận trách nhiệm về mình.
Ông nói: Tôi thật sự là người bất xứng, vì tôi đã bảo đảm với De Castries là pháo địch không thể đụng tới chúng ta, vậy mà bây giờ chúng ta đang thua trận. Tôi sẽ không muốn sống nữa.
Nói rồi, ông ra khỏi hầm trú ẩn và dùng lựu đạn tự sát.
20 Bernard B Fall , Ibid, trang 156
Chiến dịch Castor
Phần lớn các sĩ quan được chỉ định như tướng Cogny đều viết thư phản đối chiến dịch Castor với cuộc nhảy dù xuống ĐBP, vì ông cho rằng không đủ bảo đảm thắng lợi. Tướng Nicot phụ trách không vận cũng viết thư phản đối vì không lực của Pháp không thể bảo đảm nguồn tiếp liệu liên tục cho chiến trường với thời tiết rất khắc nghiệt, nhiều mây mù bao phủ chung quanh ĐBP.
Tướng Không quân Deschaux, chỉ huy không quân ở Bắc Việt thì cho rắng từ Hà Nội đến ĐBP cách nhau 350 kilô mét sẽ giảm thiểu khả năng tiếp liệu của không quân.
Nhưng Navarre hầu như không lưu tâm đủ đến những lời phản đối ấy và kế hoạch đổ bộ xuống ĐBP vẫn được thực hiện.
Tướng Fay khi được tướng Rene Pleven hỏi ý kiến về căn cứ ĐBP, Fay đã trả lời rằng, nếu tôi có thể đưa ra một lời khuyên thì yêu cầu rút lui ngay ra khỏi ĐBP trước khi mùa mưa tới, bởi vì sân bay ở đây sẽ không đũ sức chịu đựng được những trận mưa rừng kéo dài cả 15, 16 tiếng đồng hồ. Nhận xét của tướng Fay sau này thành sự thực. Nhiều cứ điểm bị ngập nước, binh sĩ lội bì bõm trong đất bùn lầy.
Riêng De Castries đã không phản ứng tức thời và đúng lúc khi được lệnh chỉ huy ĐBP, một chức vụ mà ông hoàn toàn không thích hợp. Tuy nhiên ông cũng đủ can đảm và lương thiện nói cho Navarre biết rằng:
Nếu tin tưởng vào một Nà Sản thứ hai mà ông mong muốn thì xin chỉ đỉnh một người khác thay tôi, tôi không cảm thấy thích hơp cho công việc này.
21 Jules Roy, Ibid, trang 278
Đáng nhẽ, De Castries phải có can đảm dứt khoát từ chối nhiệm. Sự thụ động của ông cứ nấp trong hầm trú ẩn, lưỡng lự trong việc ra lệnh phản công đã gây ra những bất đồng nghiêm trọng giữa
Chỉ đến phút chót khi quyệt định buông súng, hai người mới có dịp ôm choàng lấy nhau một lần cuối .
Lúc đó là lúc mà mọi chuyện đã quá muộn!!
Cuối cùng cái lý do chính yếu để Navarre quyết định đổ quân xuống Điện Biên Phủ vì đánh giá sai khả năng quân sự của tướng Giáp, nhất là về khả năng trọng pháo. Bởi vì ông ta cho rằng không có cách nào tướng Giáp chở được trong pháo 105 ly đặt ở sườn núi đối diện lòng chảo ĐBP, vì sẽ bị lộ và tiêu diệt ngay bằng bom và trọng pháo của Pháp. Đặt ở phía sau núi thì quá xa mục tiêu và ngoái tầm bắn của trọng pháo ..
Về điểm này Berard B. Fall cũng cùng đưa ra nhận xét là:
The underestimation of the Viet Minh’s capabilities was perhaps the only real error made by the Frech commander-in-chief in planning for the Indochina campaign of spring, 1954.
Yet it was a strategic error and had strategic consequences!!
22 Bernard B. Fall, Hell in a very small place, trang 50
Riêng nhìn vào địa hình, địa vật người ta cũng nhận ra vị tướng chỉ huy của Việt Minh thong thả ra vào, ban ngày rảnh rổi leo lên núi thong thả quan sát trận địa một cách an toàn .. Trong khi vị tướng Pháp thì khốn khổ chui trong hầm chỉ huy, chặt chội và lúc nào cũng bị đe dọa bị pháo kích. Hầu hết cây rừng đã bị đốn hạ để làm nắp hầm càng làm lộ mục tiêu trống huếch trống hoang cho pháo địch ..
Chính tướng Giáp cũng nhìn nhận: Điện Biên Phủ dù là một căn cứ được củng cố mạnh mẽ về quân sự. Nhưng được xây dựng ở một vùng rừng núi thì cái phần lợi nghiêng về phía chúng tôi, và phần bất lợi dành cho kẻ thù .. Nói tóm lại, đó là một căn cứ quân sự hoàn toàn bị cô lập với hậu cứ của kẻ thù. Phương tiện chuyên chở duy nhất nguồn tiêp liệu cho địch là đường hàng không .. và trong trường hợp đó dễ làm làm nản lòng kẻ thù về ý muốn tấn công và buộc họ quay về thế phòng thủ..
23 Giap People’s War People’s Army, trang 166
Lúc ban đầu, cuộc hành quân Castor tỏ ra có dấu hiệu lạc quan và tốt đẹp. Từ hai phi trường Bạch Mai và Gia Lâm. Khoảng 9 giờ sáng, hàng đoàn từng 32 phi cơ một lần lượt cất cánh. Tiếng phi cơ Dakota nổ máy và trực chỉ hướng Tây Hà Nội và khoảng hơn 10 giờ sáng, họ đã có mặt trên bầu trời lòng chảo Điện Biên Phủ. Các phi cơ phóng pháo và bỏ bom có nhiệm vụ dọn sạch bãi đáp bằng cách bỏ bom và bắn phá những điểm nghi ngờ trên các dãy núi chung quanh lòng chảo ..
Người không may mắn chết đầu tiên trong chuyến nhảy dù xuống ĐBP là đại úy bác sĩ Raymond bị Việt Minh bắn xẻ ngay khi ông còn chưa đặt chân xuống mặt đất. Người thứ hai là một binh sĩ truyền tin người Việt tên Nguyễn Văn Thái bị đâm chết khi rơi vào một chỗ phục kích của Việt Minh .
Ngay khi xuống mặt đất thì các sĩ quan như trung tá Fourcade, đại úy Le Gall, Bigeard, Tourret, Guiraud, Bouvery, Clairfond, Bommard đã sắp đặt doanh trại, củng cố vị trì và, tảo thanh mở những cuộc hành quân kiểm soát vùng vòng chảo ĐBP .
Kết quả là họ đã tịch thu được 60 súng cá nhân, 20 ngàn viên đạn và 100 ki1lo6 thuốc nổ và loại khỏi vòng chiến 115 bộ đội Việt Minh.
Phía quân đội Pháp thiệt hại 12 người và hơn 30 người bị thương.
Kết quả ấy làm hài lòng Navarre!!
Lucien Bodard- một ký giả chuyên nghiệp, tác giả cuôn sách đồ sộ- bề dày 1668 trang về chiến tranh Đông Dương- chỉ rất tiếc không hiểu tại sao không có phân viết về Điện Biên Phủ- cuốn La guerre d’Indochine – người từng đã dành hàng vài trăm trang sách để viết và ca tụng tướng De Lattre De Tassigny đánh điện về cho tờ France-Soir, một cách lạc quan, ngày 23 tháng 11, 1953: chiến dịch Castor xuống lòng chảo Điện Biên Phủ không phải là kiểu cuộc hánh quân xuống Lạng Sơn trước đây, nhưng là bắt đầu một trận tấn công.
24 Georges Fleury, Ibid, trang 593
Thật ra Lucien Bodard chỉ lật lại lời tuyên bố lạc quan của Cogny mà thôi .
Sau khi phi trường Mường Thanh không còn chuyên chở được đồ tiếp liệu mà nhu cầu là 150 tẩn- ngày rơi xuống còn được mấy chục tấn –ngày. Mọi hy vọng kể như đã hết.
Điện Biên Phủ hấp hối
Bernard B. Fall đã dành hẳn một chương nhan đề Castor Dies để viết về sự thất thủ ĐBP. Như một thứ nhật ký chiến tranh- từng ngày- kể từ ngày 24 tháng tư, 1954- ký giả B. Fall ghi lại từng chi tiết diễn tiến ĐBP ở vào cái giờ thứ 25 của sự kết thúc. Kể từ khi mất Huguette 1, có thể một nửa số tiếp liệu rơi vào tay Việt Minh. Mỗi tấn tiếp liệu đến tay binh đội Pháp phải trả giá bằng sự liều lĩnh và sinh mạng của các phi hành đoàn do súng phòng không 37 ly do Liên Xô cung cấp.
Cho đến phút cuối cùng, tất cả các sĩ quan Pháp nào ở Điện Biên Phủ còn có thể bước đi được như Langlais thì đều tập trung về cái Bunker của tướng De Castries vào lúc 16 giờ. Nhưng thực ra, họ không biết một điều là một điện tín đã được gửi đi từ ĐBP quyết định lệnh ngưng băn từ lúc hai giờ chiều.
Người ta thấy có đại tá Meunier, các chỉ huy tiểu đoàn như Vado, Clemencon, Lemeunier, Tourret, Guiraud và Bigeard. Chỉ thiếu có đại tá Lalande đang phải đương đầu với bộ đội Việt Minh ở cứ điểm Isabelle. Ở Isabelle còn có 2000 viên đại bác 105 ly và Lalande được lệnh tự ý tìm một con đường thoát..
Sau khi các sĩ quan phúc trình về hoàn cảnh của mỗi đơn vị và giải tán, chỉ còn lại Langlais và De Castries liên lạc trực tiếp với tướng Cogny.
De Castries nói với Cogny:
Thưa đại tướng, giọng ông gần như vỡ ra, kẻ thù tràn ngập Nam Youn Mọi phương cách rút lui đề thất bại .. Một trận chiến ban đêm sẽ xảy ra và hàng ngàn thương binh sẽ là nạn nhân của cuộc thảm sát này. Sau đó De Castries trao máy điện đàm cho Langlais. De Castries nói tiếp :
Phải ngưng cuộc chiến đấu .
Tướng Cogny mấp máy nói, chào bạn thân mến của tôi
Vâng, chào đại tướng. Nói xong De Castries rời bỏ điện đàm.
Sau đó, họ chuẩn bị cuộc đầu hàng. Chỉ riêng có cứ điểm Isabelle là có thể đào thoát.
De Castries lệnh cho các thuộc hạ phá hủy tất cả cái gì có thể phá hủy ..
Lúc đó là 5 giờ chiều. De Castries gọi Hà Nội yêu cầu Hà Nội cho một máy bay cung cấp thực phẩm cho ngày hôm sau . Tướng Cogny còn cố dặn với tướng Castries rằng : Đầu hàng thì đầu hàng, nhưng nhớ đừng có kéo cờ trắng .. vì điều đó sẽ làm hủy hoại danh tiếng của ông trong 55 ngày đêm vừa qua. Này ông bạn De Castries, tôi không có quyền ra lệnh ông đầu hàng, làm thế nào thì làm, nhưng tuyệt đối không kéo cờ trắng.
Có lẽ việc trao cờ trắng đầu hàng cần được chi tiết hơn nữa bằng cách trích nguyên văn các khẩu lệnh của các vị chỉ huy Pháp.
Theo ký giả Jules Roy qua tướng Cogny thì lệnh ấy như sau xin được trích nguyên văn :
Hello, hello Castrie ?.. Hello , Castries?
General?
Look, man, naturally you’ve got to call it quits. But one thing certain is that everything you’ve done so far it superb. You mustn’t spoil it all now by hoisting the white flag. You’re overwhheimed, but there must be no surrender, no white flag.
25Jules Roy, The Battle of Dienbien Phu, trang 282
Theo thiếu tá Pouget, sĩ quan tùy viên của tướng Navarre thì ông ghi nhận được cuộc điện đàm như sau:
Tell me, old boy, this has to be finished now, of course, but not in the form of a capitulation. That is forbidden to us. There can be no hoisting of the white flag, the fire has to die of its own, but do not capitulate. That would mess up all that you have done that is magnificient untill now.
Theo hãng thông tấn Agence France-Presse vào ngày 8 tháng 5, 1954, Tướng Cogny có thể đã nói như sau:
You will fight to the end. There is no question about raising the white flag over Dien Bien Phu after your heroic resistance.
2626 Bernard B. Fall, Ibid, trang 406
Về phía tài liệu Viêt Nam, tác giả Hữu Mai ghi:
Nhiều toán địch ra hàng. Những đốm cờ trắng xuất hiện ở Mường Thanh mỗi lúc một nhiều. Anh Thái luôn luôn nhắc các đơn vị: Bao vây chặt không để một tên nào chạy thoát.
2727 Hữu Mai, Đai tướng Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, Điểm hẹn lich sử, trang 391
Một tài liệu khác do ông Nguyễn Khắc Viện ghi lại như sau:
Ngày mồng 1 tháng năm, mở màn cho đợt tấn công thứ ba . Các đồi A 1( Eliane 2), C1 (Eliane 1) cũng như một số cứ điểm khác bị tràn ngậ . Vào buổi chiều ngày 7 tháng năm, một trận tấn công cuối cùng đã giúp các lực lượng Việt Minh chiếm được bộ chỉ huy của địch, và bắt được tất cả bộ tham mưu của địch cùng với tướng De Castries. Cứ điểm chỉ huy đã đầu hàng và có dương cờ trắng.
28 28 Nguyễn Khắc Viện, Histoire du Viet Nam, trang 230
Người viết đã cố xem nhiều bức hình chụp được ghi lại cuộc chiến Điện Biên Phủ. Có những bức hình cho thấy cảnh chết chóc tàn bạo nằm phơi thây trên các chiến hào xác của binh đội Pháp và Việt Minh sau trận Dominique. Xác một binh sĩ Pháp nằm ngửa, giang hai tay ở một chiến hào. Cách người lính Pháp chừng hai thước là một binh đội Việt Minh, đội nón cối, chết nằm nghiêng .. Trận chiến sáp lá cà phải kinh khủng lắm!!
Hình ảnh những xe thồ chở đến 200 kilo cho mỗi chiếc xe.
Bức hình duy nhất do tài liệu báo Quân Đội Nhân Dân ghi lại cảnh ba binh sĩ Việt Minh một người dương lá cờ đỏ sao vàng, hai người kia cầm súng ..Gần đó có một trụ mầu trắng không rõ? Không lẽ đây lá lá cờ trắng đầu hàng ?
Có cờ trắng hay không thì không thấy rõ ràng.
Vào khoảng 6 giờ chiều thì bộ đội Việt Minh đã có mặt ở trên nóc hầm chỉ huy của tướng De Castries.
Bộ tham mưu ĐBP lặng lẽ nối đuôi nhau bước ra khỏi căn hầm. Đứng trên những bao đất rách phủ nóc hầm bằng thép cong, ba người lính Việt Minh trong đó có trung đội trưởng
1 giờ 50 ngày 08 tháng 05 năm 1954, máy bay chỉ huy lượn trên trời thu được bức điện cuối cùng của quân Pháp ở Điện Biên Phủ:
Đến đây thì thật là chấm hết.
Chấm hết chiến tranh Đông Dương, chấm hết chế độ thuộc địa Pháp.
Ngày 08 tháng 05 năm 1954, một máy bay ném bom 4 động cơ Privateer của phi đội
Người phi công lái máy bay, trung úy Hải quân Monguillon và tám hạ sĩ quan phi hành đoàn là những người Pháp cuối cùng bỏ mạng trong trận Điện Biên Phủ”.
Phần tướng Giáp thì liên tiếp điện thoại và yêu cầu xác nhận lá đã bắt được tướng De Castries hay không? De Castries đầ hàng, đã bị bắt làm tù binh . Đi bên cạnh ông ở phía trái là Bigeard và phía phải là Langlais ..
Đại tá Thanh đã vui mừng xác nhận với tướng Giáp là De Castries đang ở trước mặt ông với đầy đủ bộ tham mưu của
16 ngàn binh sĩ Pháp tham dự trận chiến Điện Biên Phủ. 2000 người trong số họ đã tử thương. 2000 người mất tích và hơn 5000 người bị thương.
Sáng ngày 8 tháng năm 1954, chiến thắng của tướng Giáp thật trọn vẹn sau khi cứ điểm Isabelle đã ngưng bắn vào một giờ đêm qua.
Navarre là người trách nhiệm hoàn toàn sự thua trận ở Điện Biên Phủ và mặc dầu sự tổn thất này chỉ tương đương với 3% quân số của binh đội Pháp.
Sau đó, người Pháp quyết định rút lui khỏi Đông Dương .
Chính phủ Laniel từ chức vào ngày 12 tháng sáu 1954 .. Chính phủ Bảo Lộc theo chân từ chức hai ngày sau ..
Mendes- France lên thay thế Daniel vào ngày 24 tháng sáu và ông hứa chấm dứt chiến tranh trong vòng một tháng. Và nếu không chấm dứt được thì sẻ gửi quân đội sang Bắc Việt !!
Cuộc trao đổi tù binh mà người Pháp hy vọng một cách ngây thơ là Việt Minh sẽ trao trả tất cả 36970 tù binh bị Việt Minh cầm tù. Việt Minh chỉ trao trả có 17754 tù binh ..
Nhiều tù binh được trao trả chỉ còn da bọc xương, nhiều người cân nặng chưa được 40 kí lô.
Trong khi đó các tù binh Việt Minh được trao trả đều khỏe mạnh. Nhiều thương bệnh binh Việt Minh nằm điều trị ở nhà thương Le Flem ở Sài gòn đã được đại úy Martineaud chở xuống tận Cà Mâu .. Nhiều đồng đội của họ gặp nhau đã giật bỏ những dây chuyền nước biển và tống lên xe cam nhông nhãn hiệu Liên Xô..
Những trang sử chót của lịch sử nước Pháp được diễn ra vào buổi chiều ngày 8 tháng 10 1954 tại sân vận động Mangin. Trời hôm nay mưa nhiều..Trên sân vận động diễn ra cuộc kéo cờ Pháp lần chót với một số ít binh đội cầm súng dàn chào.
Không có đội kèn đồng của nhà binh dàn chào như thường lệ. Chỉ có một tiếng kèn đồng thổi một điệu nhạc buồn như một lời tiển đưa.
Người nhận lá cờ là đại tá Argnacé.
Trong khi đó, người sĩ quan đại diện gấp lá cờ tam tài ướt sũng nước mưa.
29 Passing the Torch, A final Adieu, trang 90
Ở trang bên cạnh cuốn sách, tôi nhìn thấy sân đá banh Mangin cỏ dại mọc lên đến đầu gối. Có hai binh sĩ kéo lá cờ Pháp xuống và một sĩ quan đội nón sắt đứng nghiêm chào. Đứng quay lưng chỉ thấy có thể là tướng Cogny, đội nón képi cũng đứng nghiêm chào ..
30 Tóm lược Georges Fleury, Ibid, tur72 trang 649-660
Giải pháp không giải pháp của
Trước giờ tuyệt vọng của Điện Biên Phủ, người ta trông đợi sự can thiệp trực tiếp của
31 No more Viet Nam, Richard Nixon, trang 31
Và nhờ thế tranh được di sản một cuộc chiến kéo dài thêm 21 năm nữa.
Nếu như, lại nếu nữa là đề nghị của Đề đốc Hải quân Arthur Radford đưa ra kế hoạch xử dụng 60 máy bay B-29 từ Phi Luật thực hiện những cuộc oanh tạc ban đêm đến ĐBP hoặc gọn nhẹ hơn nữa theo đề nghị của ngoại trưởng Foster Dulles cho phép thả vài quả bom nguyên tử cỡ nhỏ xuống ĐBP để vô hiệu hóa Việt Minh thì hẳn kết thúc cuộc chiến đã khác ..
Tuy nhiên, Mỹ là xứ dân chủ, sau bài diễn văn thăm dò của Phó tổng thống Nixon về những biện pháp mạnh quân sự cần làm như việc can thiệp trực tiếp của quân đội Mỹ vào chiến tranh Đông Dương thì 68% dân chúng Mỹ không đồng ý Mỹ can thiệp vào Đông Dương .
J.Prados cũng nhận xét:
" Ở một giai đoạn tồi tệ nhất, ngoại trưởng Dulles đã công khai giúp cho Pháp võ khí nguyên tử chiến lược với hy vọng có thể giải tỏa được áp lực quân sự của Viet Minh(..) Và đến ngày 15/4, Phó TT
32 Viet Nam, John Prados, trang 29
Nhưng theo ông Nixon, lý do chính yếu khiến
"Tiếc là đề nghị của vị đề đốc này khi sang Anh Quốc đã bị thủ tướng W. Churchill bác bỏ . Churchill cho rằng Anh quốc đã không chiến đấu cho quyền lợi nước Anh tại Ấn Độ thì không vì lý do gì họ lại tham dự vào cuộc chiến tranh Đông Dương giúp người Pháp".
33 No more Viet Nam, Richard Nixon, trang 30
Thật vậy, ông Bidault ngồi tại Quai d’Orsay, nhìn sông Seine hướng về phía Tây Bắc trong một niềm hy vọng tuyệt vọng. Đó là sự cứu vớt Điện Biên Phủ đặt tất cả sự trông chờ vào London. Trong khi đó nội các Anh họp và đi đến quyết định sẽ không có sự can thiệp của đồng minh, trừ khi Hội nghị Geneve đi đến thất bại. Bom nguyên tử dự định được bỏ xuống ĐBP ngày 28 tháng tư với điều kiện chính phủ Anh không lên tiếng phản đối. Chính phủ Anh chủ trương một chính sách bất can thiệp.( The policy of nonintervention), bởi vì họ không lường được hậu quả của sự can thiệp này. Đại sứ Pháp R. Massigli đã dành cả một ngày làm việc tại bộ ngoại giao Anh mà chỉ uổng công, vì ngay cả một bản tuyên bố chung cũng bị thủ tướng Anh Eden từ chối.
34 34 Jules Roy, Ibid, trang 247
Cuối cùng như người ta được biết
Pháp đã thua không phải vì tổn thất sinh mạng. (tổn thất phía Việt Minh gấp 5 lần hơn) mà vì ý chí chiến đấu nói chung đã không còn nữa!! như nhận xét của Nixon:
" Trận Điện Biên Phủ đánh một đòn chí tử vào tinh thần của quân đội Pháp".
35 more Viet Nam, R. Nixon, trang 28
Tướng Georges Catroux cũng đã viết một bản phúc trình gửi ngày 3/12/1955 mở đầu như sau:
"Cuộc thất trận Điện Biên Phủ nói riêng về mặt quân sự nó không chứng tỏ một cán cân quân sự bất lợi cho sự thất trận ở Đông Dương, nhưng là do hậu quả tâm lý đối với dân chúng có phần mệt mỏi về một cuộc chiến tranh không được mọi người đồng ý vì nó như thể kéo dài không biết đến bao giờ và người ta chờ đợi một cách nào đó nó phải chấm dứt".
36Rapport concernant la conduite des Opérations en Indochine sous
Đằng sau Võ Nguyên Giáp là 600 triệu con trời chỉ cần mỗi người đái một bãi cũng đủ ngập sông Hồng Hà. Trong khi đó, ngay cả tướng Mỹ O’Daniel khi quan sát lòng chảo ĐBP đã phấn khởi điện về cho TT Eisehhower tính cách tích cực của chiến dịch này
Phần vinh dự dành cho tướng Gíáp vì thế thật là nhỏ. Ông đã thật sự không muốn hiểu điều đó. Cùng lắm, phải chặng ông chỉ là người đứng ra đại diện nhận cái chiến công ấy thay cho Trần Canh và trong trận ĐBP là Vi Quốc Thanh !!
(còn tiếp)