Tôi nhớ lần đầu gặp lại Phạm Thị Thanh Thu, trong câu chuyện hàn huyên nhắc nhở về những người bạn cùng học lớp Đệ Tứ Ngô Quyền thuở xa xưa, chúng tôi có nhắc đến tên Trần Thị Nguyệt Thu. Tôi nhớ ngay cô bạn thân thời thơ ấu nên hỏi vội ''Nguyệt Thu giờ ở đâu? Mình với Nguyệt Thu là bạn láng giềng nữa đó”. Tiếng Thanh Thu nghe buồn man mác: ''Nguyệt Thu mất rồi, mất từ sau biến cố 75, nghe nói là bị bệnh sao đó!”… Tôi thật bàng hoàng, vừa nghe tin bạn chưa kịp vui mừng thì mất mát đó làm tôi sững sờ. Tôi muốn hỏi thăm thêm nhiều nữa nhưng Thanh Thu chỉ biết có vậy.
Cùng học với nhau 3 năm Trung học đệ nhị cấp trường Ngô Quyền, Biên Hòa rồi về
Sài Gòn cùng học Đại Học Văn Khoa, sau khi tốt nghiệp, Thanh Thu công tác ở sở
giáo dục Đồng Nai còn Nguyệt Thu về làm ở phòng triển lãm trường Mỹ Nghệ Thực
Hành Biên Hòa. Hai bạn có điều kiện gặp nhau thường xuyên nhưng thời ấy bạn bè
thân nhau cũng chỉ đến thế. Nguyệt Thu mất đi lúc chúng tôi tuổi đời đều còn
quá trẻ, vận nước lại đổi thay, cuộc sống đời thường biết bao khó khăn vất vả
đã khiến bạn bè không còn nhớ… Mãi cho đến hôm nay, cánh chim xa xứ như tôi biền
biệt hơn nửa đời người mới tìm về lại quê xưa, hỏi thăm từng bạn cũ, thương thay
người còn kẻ mất.
Xúc động biết bao khi gặp lại những người bạn cùng thời áo trắng bây giờ tất cả
đã bạc trắng mái đầu. Tôi lần giở những trang ảnh cũ trong tập album mà tôi lưu
giữ như báu vật, trong đó là những khuôn mặt thân thương của bạn tôi từ hơn 40
năm trước: Nguyệt Thu là cô bé 15 tuổi, mặc áo đầm trắng, cổ đeo xâu chuổi,
tay ôm con mèo trông thật dễ thương. Mỗi lần họp mặt bạn bè lớp đệ Tứ, tôi đều
đưa hình Nguyệt Thu cho các bạn xem hy vọng có bạn nào biết thêm gì về Nguyệt
Thu.
Ngày ấy nhà tôi ở trong con hẻm nhỏ còn nhà Nguyệt Thu ở ngay mặt tiền đường
Trịnh Hoài Đức. Những ngày Chủ Nhật tôi thường sang nhà bạn, ngôi nhà mà trong
ký ức tôi giống như một khu vườn cổ tích. Tôi nhớ ngoài cổng đi vào qua một
khoảng sân vườn sâu hun hút, hai bên lối đi trồng hoa cỏ rất đẹp, có một cây
mận trắng cành thấp lè tè, trẻ con như tôi chỉ cần với tay là hái được những
chùm trái chín ngọt ngon nên thích lắm. Nhưng thích nhất vẫn là những bức tượng
thạch cao lớn nhỏ đặt rải rác trong vườn. Hồi đó tôi nào có biết gì về nghệ
thuật điêu khắc, nhưng nhìn những tượng hình người và thú vật thấp thoáng sau
các khóm cây tôi thấy chúng sống động làm sao. Những bức tượng thường không
nguyên vẹn, chúng sứt mẻ đôi chút nhưng dưới mắt nhìn tuổi thơ thì thật hoàn
mỹ. Ba của Nguyệt Thu làm Giám Xưởng trong trường Mỹ Nghệ nên ông hay nhặt
những bức tượng khiếm khuyết bị loại bỏ đem về đặt trong vườn nhà. Nào thỏ, nào
voi, nào thần Apolo, thần Venus, nào Bạch Tuyết và cả 7 chú lùn…
Mẹ của Nguyệt Thu thường giữ tôi ở lại ăn cơm trưa với cả nhà. Cơm bà nấu rất
ngon, hôm nào cũng có bánh ngọt hay trái cây ăn tráng miệng. Nguyệt Thu có 1
người chị và 1 người anh, chị Hai nghiêm trang nên tôi ít dám chuyện trò, anh
Ba của Nguyệt Thu là bạn học với anh trai tôi nên tôi cũng thân với anh hơn.
Hồi đó Nguyệt Thu hay rủ tôi sang nhà chị Loan là chị họ của Nguyệt Thu. Chị
Loan có mấy chị em gái đều là nữ sinh Ngô Quyền. Chị Loan với Nguyệt Thu cùng
là chị em cô cậu với diễn viên Thẩm Thúy Hằng. Thỉnh thoảng tôi có gặp Thẩm
Thúy Hằng ở nhà chị Loan, lúc ấy Thẩm Thúy Hằng khoảng trên 20 tuổi và đẹp
tuyệt vời. Nhà chị Loan có vườn cây ăn trái rất rộng, chị cho chúng tôi tha hồ
hái vừa ăn vừa mang về.
Khi tôi trúng tuyển vào lớp đệ Thất trường Ngô Quyền thì Nguyệt Thu học trường
Tư Thục Minh Tân. Đến năm 1968, tôi chuyển lên Bảo Lộc học trường Nông Lâm Súc
thì Nguyệt Thu lại vào trường Ngô Quyền học 3 năm đệ nhị cấp với các bạn lớp đệ
Tứ của tôi. Con đường Trịnh Hoài Đức mở rộng, nhà Nguyệt Thu bị giải tỏa, gia
đình chuyển lên ở trong khu tập thể của trường Mỹ Nghệ, tôi bặt tin bạn từ đó.
Rồi một sự tình cờ hy hữu, trong buổi họp mặt nhóm thân hữu Ngô Quyền, tôi làm
quen với các bạn Tứ 2, Chu Thúy Loan nhận ra tôi. Tôi thật cảm động và cũng nhớ
Loan, Tâm, những gương mặt thân quen... Tôi tìm đến nhà thăm Loan lại phát hiện
Loan là chị dâu của Nguyệt Thu. Thật quả đất tròn và xứ Biên Hòa của tôi nhỏ
bé. Tôi rất vui khi anh Quang, chồng của Loan là anh của Nguyệt Thu vẫn nhớ
tôi. Anh nói sau khi tốt nghiệp, anh về dạy ở trường Mỹ Nghệ và là Thầy thằng
em trai út của tôi.
Lúc Loan về làm vợ anh thì Nguyệt Thu đã mất. Anh kể cho tôi nghe nguyên nhân
cái chết của bạn tôi: Khoảng tháng 6 năm 1975, chị Hai của Nguyệt Thu bị bệnh.
Bác sĩ chỉ định tiếp nước biển cho chị nhưng được nửa chai thì chị không chịu
tiếp nữa. Gia đình thấy bỏ nửa chai nước biển phí quá, thời đó thuốc men đắt và
hiếm nên sẵn Nguyệt Thu ốm yếu bèn nhờ cô y tá trong xóm tiếp nửa chai nước
biển còn lại cho Nguyệt Thu. Định mệnh thật khắc nghiệt, bạn tôi ra đi vì bị
sốc nước biển.
Tôi bồi hồi xúc động và ngõ ý muốn đi viếng mộ bạn. Thúy Loan sốt sắng nhận lời
đưa tôi đi. Bây giờ chỉ có người chị dâu tốt bụng nầy thường xuyên chăm sóc mộ
phần cho bạn tôi, cám ơn Thúy Loan nhiều nha.
Chùa Đại Giác ở Cù Lao Hiệp Hòa - Biên Hòa là ngôi cổ tự nổi tiếng được sắc
phong từ thời Nguyễn, bây giờ được xếp hạng di tích văn hóa Tỉnh Đồng Nai. Cách
đây 2 năm cô bạn thân của tôi ở Seattle
có gởi tiền về nhờ tôi chuyển cúng chùa, góp phần công đức xây lại hàng rào
xung quanh chùa. Lần đó tôi đến cúng chùa vô tình không biết ở nghĩa trang phía
sau có mộ bạn mình. Ngôi mộ nhỏ ẩn mình sau tòa tháp cổ. Nguyệt Thu nằm đó,
thân xác bạn chắc hẳn đã hòa vào lòng đất quê hương, và linh hồn bạn cũng đã
siêu thăng miền tịnh độ không còn vương vấn bụi trần… Tôi buột miệng hỏi Loan:
không biết khi ra đi Nguyệt Thu có người bạn trai nào đưa tiễn không? Thật bất
ngờ, Loan kể cho tôi nghe ngày xưa Nguyệt Thu có người bạn học Nông Lâm Súc Bảo
Lộc tên Đoàn Ngọc Quế quê ở Long An. Không biết tình cờ đọc bài viết nầy anh
Quế có còn nhớ không?
Riêng tôi, cảm nhận sự vô thường trong nhân thế, cảm nhận cuộc đời sắc sắc
không không. Thắp 3 nén hương cho ấm mộ bạn mình cũng ấm thêm tình bằng hữu.
Mượn mấy câu thơ của Tôn Nữ Hỷ Khương kết thúc bài viết nầy tặng bạn bè tôi:
Còn gặp nhau thì hãy cứ thương,
Tình người muôn thuở vẫn còn vương.
Chắt chiu một chút tình thương ấy,
Gởi khắp muôn phương vạn nẻo đường.
Tháng Giêng, năm Nhâm Thìn 2012
Bùi Thị Lợi