TẢN MẠN CHUYỆN THẦY CÔ, TRƯỜNG LỚP CŨ
Sáng nay, ngồi trước gương lược, mình cảm thấy mái tóc ngày xưa đã điểm thêm một chút màu trắng nữa. Khóe mắt ngày nào hằn thêm những vết chân chim. Nhìn ra đầu ngõ, những đứa bé hàng xóm đang lao xao rủ nhau đi học hè. Ngẫm nghĩ lại, điển tích "thời gian, bóng câu qua cửa sổ" mà mình được học trong môn việt văn ngày nào, bây giờ đúng quá. 48 năm qua rồi nhỉ!
Hè năm 1962, tôi tạm biệt tiểu học trường làng, trường tiểu học Bửu Hòa, để lên cấp trung học, chuẩn bị thi vào đệ thất trung học công lập Ngô Quyền. Tôi cùng các bạn học cùng làng, cùng lớp: Đoàn hữu Hiệp, Lâm văn Năm, Bùi hiếu Thuận... đến học luyện thi ở nhà cô giáo Thôi. Nhà cô giáo ở cạnh đường rầy, cách ga xe lửa Biên hòa khoảng 400 mét. Chúng tôi lội bộ dọc theo đường rầy, từ ngã tư Chợ đồn để đến nhà cô, khoảng 2 cây số. Lần đầu tiên đi bộ qua cầu Gành, cầu Rạch cát, tôi cảm thấy run run. Những tấm ván lót sàn cầu kêu kèn kẹt, tôi phải vịn tay vào thành cầu, mắt không dám nhìn xuống mặt sông. Tiếc thay, năm đó chúng tôi bị rớt. Tôi phải tạm cư một năm ở đệ thất Minh Tân. Lớp học có gần 100 học sinh, học phí mỗi tháng là 100 vnd. Năm sau, tôi quyết tâm thi lại. Bảy năm học trường công lập. Khoản miễn học phí mười mấy ngàn đồng cũng nhẹ được phần nào gánh nặng cho gia đình.
Qua Tết năm 1963, tôi đã tự ôn tập để chuẩn bị thi lại.
Có công mài sắt, có ngày nên kim. Kết quả thi tuyển năm đó tôi có thứ hạng cao.
Trường lấy 5 lớp đệ thất. Số danh bạ của tôi là 216/63 (số 63 là năm 1963). Tôi
được xếp vào học lớp thất 3, lớp học toàn là bạn trai. Không như cấp tiểu học, ở
cấp trung học mỗi môn học do một giáo sư phụ trách. Ở lớp thất 3 năm đó, thầy
cô tôi ấn tượng nhất là thầy Đinh văn Sái, dạy môn Pháp văn và cô Khương thị
Bàn, dạy môn toán. Khi đến trường Ngô Quyền để nộp đơn thi vào đệ thất, tôi đã
gặp thầy Sái đang hướng dẫn các anh chị lớp trên chơi môn bóng rỗ ở sân tập cạnh
hàng rào trường. Dáng người cao to, trán hói, lưng hơi khòm, gọng kính đen cáng
nhựa luôn trên mắt. Bây giờ,tôi lại được thầy giảng dạy môn Pháp văn ở năm đầu
trung học đệ nhất cấp, sách học là quyển Elementaire. Thầy có giọng nói từ tốn,
sang sảng, hai tay ưa xoa xoa đáy quần. Một buổi học, tôi không nhớ là bài
lecon thứ mấy, có hình con chó đang ngồi nhìn cục xương. Thầy bảo đặt một câu
văn bằng tiếng Pháp tả cảnh ấy. Thầy đưa ngón tay trỏ xoay xoay một vòng rồi chỉ
bạn Nguyễn Khắc Dũng, dáng công tử, da trắng trẻo, ngồi đầu bàn. Bạn Dũng đứng
lên trả lời ấp úng:
_ Dạ, le chien regarde..., regarde.., regarde..
Thầy gằn giọng:
_ Regarde-quoi?
_ Dạ,regade..., regarde... cục xương ạ!
Cả
lớp cười ồ như vỡ chợ. Từ đó, bạn Dũng bị đặt biệt danh là Dũng cục xương. Sau
nầy khi hỏi thăm về Dũng, Hoàng Minh Chiếu nói:
_ Đậu xong tú tài 2, ra trường, Dũng đi du học ở Nhật bản. Sau nầy, nghe nói bạn
ấy đang định cư ở Úc hay Mỹ gì đó.
Bây giờ, Dũng cục xương ơi!bạn đang ở nơi mô?
Cô
Khương thị Bàn phụ trách môn toán học ở lớp thất 3. Hồi đó, cô dạy hình học lẫn
đại số. Hình học thì học cơ bản về hình học phẳng như hình tròn, tam giác... Đại
số thì làm quen với những con chữ a,b,c.., rồi bình phương, đẳng thức. Ở cấp tiểu
học, học về số học thì đơn giản hơn. Có một lần, bài tập về đẳng thức tôi không
giải được, cô bắt tôi chép phạt bài đó 100 lần. Suốt một đêm ngồi chép phạt khoảng
5,6 trang vở, vừa mỏi tay, vừa buồn ngủ, tôi thầm oán trách cô. Tuy nhiên, tôi
vẫn phải chấp hành hình phạt. Sáng hôm sau, tôi vẫn nộp đủ 100 câu chép phạt
đó. Đến năm lớp đệ nhất (lúc đó đã gọi là lớp 12), tôi xin chuyển sang ban A vì
nghĩ, nếu chịu khó gạo bài thì vẫn được vượt qua cửa ải vũ môn. Đến mùa hè năm
1972, vận may không đến nữa, tôi bị động viên vào quân đội, một môi trường học
tập lớn hơn, có cả máu và nước mắt.
Đối với cô, suốt mấy mươi năm cô vẫn
sống nơi chôn nhau cắt rún của mình. Sau biến cố đổi thay của đất nước, cô nghỉ
dạy ở trung học Ngô Quyền từ năm 1977. Lại bị thêm cú sốc của cuộc sống gia
đình, cô hầu như ngã quị. Nhưng nghị lực đã giúp cô vượt qua gian khó để sống
vui khỏe đến hôm nay. Với tuổi ngoài 70, mỗi sáng tôi vẫn gặp cô đi chợ mua thực
phẩm tươi sống ở Chợ đồn. Với cơ thể mãnh mai, ốm yếu, cô vẫn đạp xe qua cầu
Gành hàng ngày.
Cách nay khoảng 5 năm, lúc bác
Ba gái, thân mẫu của cô quá vãng, thượng thọ 102 tuổi. Gia đình của cô sống lâu
đời trên vùng đất cù lao Phố, có uy tín, nhiều người biết đến. Anh Khương văn
Mười, em ruột của cô là một kiến trúc sư có tiếng tăm ở Sài gòn, có vai vế
trong xã hội, nên đám tang tổ chức long trọng, nhiều quan chức, đoàn thể đến
phúng viếng. Buổi sáng, khi đến viếng tang, tôi phải ngồi chờ hơn 2 giờ đồng hồ
vì các hội đoàn, quan chức đến phúng viếng đông quá. Thấy cô từ nhà sau bước
lên, tôi đứng lên thưa trình:
_ Xin phép cô, em đến thắp nhang cho bác Ba nhưng chưa làm thủ tục được. Em xin
có lời chia buồn cùng cô và tang quyến.
Sau đó,tôi xin phép cáo từ.
Thầy Khương văn Biền, giáo chức biệt phái về trường Ngô Quyền dạy môn Pháp văn
từ năm 1971. Tôi ra trường năm 1970. Tôi vẫn thường gọi với cái tên thân
thương: Anh Hai Biền. Cô Bàn và thầy Biền là chị em chú bác ruột. Sau khi không
còn dạy ở trường Ngô Quyền từ năm 1977, thầy Biền mở lớp kèm học sinh ở nhà. Nhưng
thầy lại dạy môn toán. Các em học sinh yếu toán rất thích học ở thầy để lấy lại
căn bản. Đồng thời vừa dạy học ở nhà, thầy vừa tận tình săn sóc người vợ chẳng
may bị ốm đau, bệnh tật, khi các con đã trưởng thành ra riêng. Ở đây,tôi phải
dùng cụm từ "tình nghĩa phu thê" cho đúng với chuẩn mực đạo lý con
người Việt nam. Anh hai săn sóc chị hai tận tình cho đến ngày chị hai rủ áo ra
đi. Năm 2001, cuối năm lớp 6, con trai tôi được tuyển vào đội chuyên toán của
trường cấp hai Nguyễn Bỉnh Khiêm(Biên Hòa), tôi phải đến nhờ thầy dạy kèm cháu
môn toán nâng cao. Sau một tháng dạy kèm riêng, thầy nói với tôi:
-Từ hồi tôi dạy kèm về môn toán đến nay, cháu Lý con anh, và cách đây 4 năm là
cháu Triết cùng xóm, cũng học ở trường Nguyễn Bỉnh Khiêm là thật sự giỏi về môn
toán.
Vinh hạnh quá. Con hơn cha là nhà có phước.
Năm 1995, con gái út tôi thi đậu vào trường trung học Ngô Quyền. Đầu năm học lớp
10, nhà trường mời phụ huynh họp mặt đầu năm. Đó là lần đầu tiên tôi trở lại
ngôi trường thân yêu mà tôi đã học ở đó 7 năm, sau 25 năm ra trường. Dù khoảng
cách từ nhà đến trường chỉ khoảng 3 cây số, nhưng vì bộn bề cuộc sống, 25 năm
sau tôi mới có dịp trở lại. Lần ấy, tôi lại gặp thầy Bùi Hiếu Nghĩa, anh cả của
bạn Bùi Hiếu Thuận, là thầy chủ nhiệm của lớp con gái tôi. Thầy Nghĩa cũng là cựu
học sinh Ngô Quyền, tốt nghiệp đại học sư phạm Huế. Trong thời kỳ bao cấp, tủi
thân cho nghề giáo chức, thầy cô phải làm thêm nghề tay trái để tăng thêm thu
nhập. Đôi khi phải bán thêm bánh kẹo cho học sinh trong lớp. Các thầy cô dạy
môn toán và ngoại ngữ (Anh văn)có thu nhập cao hơn. Năm đó, tôi gặp lại bạn Lý
văn Giỏi, cùng học chung thất 3, khi hai đứa con gái của hai người, vừa là bạn
học, cùng học chung lớp.
Khi
trái đất vẫn quay quanh mặt trời, thời gian vẫn miệt mài trôi chảy. Trong mỗi
con người, thời gian chỉ dừng lại khi trái tim ta không còn nhịp đập, hơi thở
không còn dâng trào. Khi đã leo lên hết con dốc cưộc đời, đó là lúc ta ngồi lại
để hoài niệm về quá khứ. Ai cũng có niềm vui, ai cũng có nỗi buồn. Tương lai trước
mặt, quá khứ sau lưng. Khi hội ái hữu cựu học sinh Ngô Quyền tổ chức họp mặt 55
năm ngày thành lập trường là dịp để quý thầy cô, bằng hữu, đồng môn ngồi lại
bên nhau để ôn lại quá khứ, hoài niệm về một thời dĩ vãng xa xưa. Từ quê nhà, cách
nửa vòng trái đất xa xăm, tôi xin kính lời chúc đại hội thành công viên mãn, mọi
người gặp nhau vui vẻ. Rồi kỷ niệm 60 năm, ai còn ai mất? Xin hãy trọn cuộc
vui. Thời gian ơi! xin chậm lại.
Biên Hòa, 1 giờ sáng, ngày 25/6/2011.
Đỗ công Luận, chs k.08 NQ.
Email luando@yahoo.com.vn
Cell phone 0913108875 .