Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

MGTT 12 - THẦY CÙ AN HƯNG – TẤM LÒNG VÀ TINH THẦN TOÁN HỌC

22 Tháng Năm 201012:00 SA(Xem: 63477)
MGTT 12 - THẦY CÙ AN HƯNG – TẤM LÒNG VÀ TINH THẦN TOÁN HỌC

mgtt14_thay_cahung-content

(Hình minh họa sưu tầm do Thầy Diệp Cẩm Thu, chs NQ khóa 7, học trò cũ của Thầy Cù An Hưng ở Đại học Khoa học Sài Gòn năm 1970, trích từ nguồn: thunhan.wordpress.com)


MGTT số 13 xin được giới thiệu về Thầy Cù An Hưng một giáo sư Toán tài năng được biết đến gần như ở cả nước Việt Nam với sự nghiệp giảng dạy dài cả nửa thế kỷ.

Thầy Cù An Hưng chỉ dạy ở Ngô Quyền một niên khóa duy nhất (nk 1962-1963) nhưng ảnh hưởng của Thầy đối với các học sinh đệ nhất B (lớp mười hai chuyên toán) kéo dài đến suốt cả cuộc đời của các “anh chị cả” (các chs NQ khóa 1)

Hai bài viết đặc biệt được giới thiệu lần này không phải là của học trò đã được Thầy Hưng trực tiếp giảng dạy mà là của một nhà báo chuyên nghiệp đã có nhiều năm trong nghề, -đang viết cho một tờ báo lớn ở Sài Gòn hiện nay-, và của một thành viên Ban Biên tập được các đàn anh đàn chị kể lại những kỷ nìệm đáng nhớ nhất cùa họ với vị giáo sư Toán tài năng và có cá tính mạnh mẽ.

BBT xin được cám ơn sự đóng góp của các chs NQ (khóa 1,8,11, 13 và 17) ở khắp nơi trên thế giới cho MGTT về Thầy Cù An Hưng. Đặc biệt cám ơn các anh Trương Đức Hoàng ở Úc, Phạm Kim Luân ở Hòa Lan, Ngô Càn Chiếu ở Pháp, Lâm Sĩ Đắt ở Texas (Mỹ), Đào Văn Công, và chị Trần Kim Lan ở Kentucky (Mỹ).

Ước mong trong tương lai, sẽ được thêm sự đóng góp quý báu của các chs NQ khác để chúng ta cùng có dịp nhìn lại thời mới lớn để nhận ra “công Cha nghĩa Mẹ ơn Thầy” có mặt trong mọi thành đạt của đời người.

thaycahungvathaydcthu-content

Thầy Cù An Hưng và thầy Diệp Cẩm Thu




THẦY CÙ AN HƯNG – TẤM LÒNG VÀ TINH THẦN TOÁN HỌC

Nguyễn Trần Diệu Hương

c-image-content
 

Chữ C là biểu tượng hằng số C bất biến trong tích phân (minh họa nguồn: www.cyvee.com)


Lúc đứng trên bục giảng Ngô Quyền, Thầy Cù An Hưng chỉ hơn các anh chị chs NQ khóa 1 khoảng sáu hay bảy tuổi, nhưng nền giáo dục với tinh thần “nhất tự vi sư bán tự vi sư” thời đó khiến các anh chị đệ nhất B (12B) luôn luôn “trông lên ngước mắt chào” thầy Hưng. Những giờ Toán của Thầy dù khô khan nhưng rất cuốn hút học trò. Theo các “anh chị cả” kể lại, giờ Giải tích của Thầy Hưng rất sinh động vì Thầy vừa có kiến thức uyên thâm vừa có khả năng truyền đạt rất lôi cuốn. Lúc đó, dù còn rất trẻ, chưa đến ba mươi, Thầy Hưng đã có chân trong Ủy Ban Tu Thư các danh từ toán học của Bộ Giáo dục.

Rời Ngô Quyền, thuyên chuyển về Sài Gòn, Thầy Hưng là một trong những giáo sư Toán chính yếu ở trường tư Trường Sơn, được các cô cậu tú (tài) tương lai lúc đó biết đến như Trung tâm luyện thi Trường Sơn, một nơi dạy luyện thi môn Toán rất nổi tiếng.

“Duyên nợ” giữa Thầy Hưng với trường Ngô Quyền thì ngắn nhưng “duyên nợ” giữa Thầy với chs Ngô Quyền thì kéo dài mãi cho đến bây giờ. Đầu thập niên 70s, nhiều anh chị “ôm mộng” vào trường Đại học Phú Thọ hay Học viện Quốc gia Hành chánh, mùa hè, hoặc cuối tuần “khăn gói” lên Sài Gòn học thêm Toán Lý hóa ở trung tâm Trường Sơn với Thầy Hưng. Theo các chs NQ khóa 13 cho biết lớp luyện thi của Thầy Hưng bao giờ cũng đầy ắp, học sinh chen chúc nhau vì danh tiếng của thầy Hưng, và cũng vì kết quả thực tế, đa số học sinh (thường là những hs giỏi nhất ở các trường Trung học công lập) học thêm Toán Lý hóa ở Trường Sơn đều đậu vào được những trường Đại học nổi tiếng ở Saigon.

Có lần, một chị Gia Long, đến học thêm ở Trường Sơn, ngồi bàn đầu làm rớt cái khăn tay, một anh Ngô Quyền ngồi bên cạnh đang chăm chú vào những phương trình lượng giác trên bảng không để ý đến chuyện rớt khăn của người bạn kế bên. Chị Gia Long cúi xuống nhặt khăn, anh Ngô Quyền ngồi bên cạnh vẫn thả hồn theo những “cos, cos, sin, sin” dày đặc trên bảng. Điều đó lọt vào mắt thầy Hưng, Thầy ngưng nói về Toán học, chuyển qua Tâm lý học. Và nhờ ngẫu nhiên tình cờ đó, các cô cậu tú tương lai của niên học 1974-1975 hôm đó được thầy Hưng dạy về tính “galant” của phái nam đối với phái nữ. Hơn ba thập niên trôi qua, các chs NQ khóa 13 có mặt trong lớp học hôm đó đều nhớ lời thầy Hưng và rất là “galant” với đàn bà con gái: chẳng hạn như phái nam phải cúi xuống nhặt đồ đánh rơi giùm cho các bà, các cô; mở cửa xe cho phái nữ lên trước khi tự mở cửa xe cho mình; luôn luôn nhường cho phái yếu quyền ưu tiên….

Đến giữa thập niên 80s, một học sinh Ngô Quyền lên Sài Gòn ghi danh theo học lớp luyện thi Toán của Thầy Cù An Hưng ở trung tâm Trương Sơn. Không may, lớp của Thầy Hưng đã hết chỗ từ lúc nào.

Buồn bã, anh quay về Biên Hòa, kể chuyện cho Ba Mẹ nghe. Ba Mẹ của anh là chs Ngô Quyền khóa 1 và là học trò ở đệ nhất B (12B) của Thầy Hưng năm xưa. Thế là hôm sau, hai chs NQ khóa 1 đến trung tâm luyện thi Trường Sơn, kiên nhẫn ngồi ở sân trường chờ Thầy Hưng dạy xong, mục đích là xin cho “thế hệ thứ hai” của NQ được vào học lớp thầy Hưng.

Cuộc trùng phùng của ông thầy trẻ năm xưa và hai anh chị cựu hs đệ nhất B Ngô Quyền diễn ra rất cảm động ở sân trường của trung tâm luyện thi Trường Sơn. Dù hơn phần tư thế kỷ đã trôi qua, dù đã có đến cả chục ngàn học trò, nhưng những người học trò đầu tiên (cũng như tất cả mọi thứ đầu tiên khác ở trên đời) có một vị trí đặc biệt trong lòng thầy Hưng. Nhất là trong trường hợp này, cả anh chị đều là học trò thầy Hưng, Anh đã một thời lặn lội ở chiến trường chịu nhiều gian khổ để đổi lấy sự an bình cho rất nhiều người khác; Chị nối nghiệp thầy Hưng, cũng là một cô giáo dạy Toán ở trung học Đệ nhất cấp.

Thế là “hậu duệ của các chs NQ khóa 1” được vào lớp thầy Hưng dù tên của học sinh này nằm ở gần cuối cái “waiting list” dài vài trang của lớp thầy Hưng. Không phụ lòng của cả cha mẹ lẫn thầy Hưng, em học sinh được thầy Hưng đưa thêm vào lớp học đã kín chỗ của Thầy, đã đậu vào trường Đại học Kiến trúc trong kỳ thi Đại học năm đó.

Thầy Hưng là một người có cá tính rất độc đáo. Có lần, Thầy đã thẳng thắn phê bình một đồng nghiệp dạy Toán ở trường Đại học Tổng hợp khoảng cuối thập niên 70. Ông đồng nghiệp từ “ngoài Bắc vô Nam” còn say men chiến thắng 75, huênh hoang về trình độ Toán của mình (tốt nghiệp từ một học viện có âm thanh "leng keng, lốp cốp"), vô tình đã giải sai một đề thi dành cho hs giỏi Tóan toàn quốc mà không biết. Thầy Hưng thẳng thắn phê bình:

- Đã làm Thầy thì phải biết mình đúng sai chỗ nào. Và nếu sai phải biết cách sửa lại cho đúng.

Vài ngày trôi qua, sau khi được chỉ chỗ sai, người chiến thắng đã bớt huênh hoang vì thấy là “mình đã giỏi luôn luôn có người giỏi hơn mình”. Thầy Hưng không những dạy Toán cho học trò mà đôi khi còn “dạy” cho cả đồng nghiệp nhất là những người chuyển vào từ miền Bắc.

Nhưng câu chuyện cảm động nhất có lẽ là câu chuyện về Nguyễn Thanh Vũ, một cậu học trò rất thông minh của thầy Hưng. Năm đó, giữa thập niên 80s, Vũ đến học luyện thi ở Trường Sơn, được thầy Hưng đặc biệt chú ý, vì vượt lên mọi khó khăn của gia đình, Ba còn đang “học tập cải tạo” ở miền Bắc, Mẹ bệnh nặng, mất sức lao động, gánh nặng gia đình đè lên vai em, nhưng Vũ vẫn học hành rất xuất sắc và đậu thủ khoa trong kỳ thi tuyển sinh vào phân khoa Toán Đại học Sư phạm năm đó. Vì chính sách tuyển sinh đương thời dựa trên lý lịch, nguồn gốc gia đình nhiều hơn là dựa trên tài năng, Vũ mặc dù đạt điểm tuyệt đối 30/30 nhưng không được gọi nhập học. Thầy Hưng rất bất bình vì chuyện đó, và biết rõ tài năng và sự thông minh của Vũ. Trong một lần đi họp ở Hà Nội về cập nhật giáo trình Toán học cho chương trình Đại học, thầy Hưng chính thức can thiệp ở Bộ Đại học & Trung học chuyên nghiệp để Nguyễn Thanh Vũ, một người đạt điểm thi tuyệt đối được vào học ở Đại học Sư phạm Sài Gòn. Vì uy tín và những đóng góp của Thầy Cù An Hưng cho chương trình Toán ở Việt Nam, Vũ nhận được giấy báo nhập học trễ vào khoa Vật lý (thay cho khoa Toán mà em đã nộp đơn thi vào). Là một học sinh xuất sắc, dù vào học khoa Lý, Vũ vẫn vượt lên trên tất cả các sinh viên cùng khóa. Bốn năm sau, Nguyễn Thanh Vũ, một lần nữa, đậu thủ khoa trong kỳ thi tốt nghiệp khoa Toán Lý Đại học Sư phạm Sài Gòn cũng với điểm tuyệt đối như lúc thi vào. “Lịch sử” lập lại, trong trường hợp này buồn nhiều hơn vui, khi tất cả các bạn cùng khóa,- kể cả những người đậu vớt hoặc những người được cộng thêm "điểm từ trên trời rơi xuống" nhờ thành phần gia đình -, đã nhận nhiệm sở, Vũ vẫn ở nhà “ngồi chơi… xơi … không khí” vì Ba em vẫn đang còn trong trại cải tạo.

Lần này không gõ được "cửa công" ở Hà Nội, thầy Hưng gõ "cửa tư" ở Saigon. Lúc đó, vì danh tiếng cừa Thầy Hưng được những người dạy và học Toán ở trong nước biết đến, nhiều trường tư ở Sài Gòn nhiều lần mời thầy Hưng về dạy. Thầy vẫn từ chối, nhưng lần này Thầy đồng ý dạy cho một trường tư lớn ở Sài Gòn với “điều kiện ắt có và đủ” là muốn Thầy nhận lời dạy, trường phải mời Nguyễn Thanh Vũ vào dạy Vật lý. Với uy tín, và “sự bảo lãnh” của Thầy, Vũ được vào dạy Vật lý ở một trường tư lớn, trở thành đồng nghiệp của Thầy Hưng nhưng lúc nào cũng nhìn Thầy như một ông Thầy, một ân nhân lớn trong đời.

Mỗi một "cơn mưa màu xanh" chưa đủ sức làm mát dịu thời tiết nóng bức ở Saigon nhưng đã vực dậy được niềm tin cho những ai còn kỳ vọng ở một ngày mai tươi sáng hơn của một thế hệ Việt Nam lớn lên sau chiến tranh

Đó là một trong những chuyện đặc biệt trong nửa thề kỷ đi dạy của Thầy Cù An Hưng. Thầy đã dạy cho ba thế hệ học trò, mà hai trong ba thế hệ đó là chs NQ.

Ước mong những người học trò giỏi sau này của Thầy Hưng sẽ nối nghiệp được Thầy cả về trình độ chuyên môn lẫn cách ứng xử tốt đẹp với cuộc đời, với con người. Cầu mong xã hội Việt Nam luôn tôn trọng chất xám hơn những thứ khác. Vì trong công cuộc xây dựng đất nước, chất xám Việt Nam sẽ góp phần quan trọng nhất. Hy vọng sẽ có được nhiều người đưa môn Toán vào cuộc đời để đất nước có được nhiều nhà khoa học, nhiều nhà máy công nghiệp, để Việt Nam có thể trở lại thành "minh châu trời Đông".

 Nguyễn Trần Diệu Hương – CA - USA


THẦY CÙ AN HƯNG - TÌNH YÊU THI CA & NHÂN CÁCH NHÀ GIÁO

Trần Tiến Dũng


 Một góc Lữ Gia - nhà thờ Hầm cách nay vài năm, thầy Cù An Hưng lúc không có giờ dạy học thường ghé sạp bán báo của tôi. Lúc đó tôi bán báo để kiếm sống, còn thầy ghé chỗ tôi để sống với tình yêu lớn của đời thầy: tình yêu thi ca.

 Có lần thầy Cù An Hưng kể với chất giọng Bắc nhỏ tiếng nhưng âm vực rất vang. Và câu chuyện thầy kể cũng chỉ để kể, không nhằm tìm tới một chuyện truyền đạt kiểu ôn cố tri tân nào:

Bọn chúng tôi lúc trước dạy ở trường Tư Thục Trường Sơn. Mà này, cậu phải biết là các thầy người Bắc di cư có công mở trường tư ở trong này. Bọn chúng tôi dạy toán, các anh Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sĩ… dạy văn. Giờ giải lao, cùng là giáo sư, ngồi chung một phòng giáo sư, suốt chừng ấy năm chúng tôi chưa từng vô lễ bước qua bàn các anh ấy. Thường là ngồi bên này cung kính trân trọng lắng nghe từng lời các anh ấy nói về văn chương. Được nghe văn chương từ các anh ấy là ý thức mình gieo mở hạnh phúc và tìm thấy tự do”.

 Sau này, thầy không kể thêm câu chuyện nào nữa về các vị văn gia lớn đó, nhưng ý nghĩa từ mẩu chuyện của thầy cho tôi một niềm tin rõ ràng rằng, các vị viết văn ngày nay không được trân trọng như đáng ra họ phải được, không được trân trọng vì lẽ, các nhà văn ngày nay không nhận thức được việc chính mình phải tự trọng trong ý thức tôn trọng văn chương hơn là mong đợi ở xã hội.

 Lần khác tôi được chứng kiến sự trân trọng của thầy ở một giới quan hệ xã hội khác. Sạp báo của tôi kê bên cạnh một tiệm phở, tiệm phở này có mùi vị của hủ tiếu bò trong khi thầy là người Bắc. Trong nhiều năm đến chỗ tôi, thầy chưa bao giờ thử ăn qua phở Nam, dù quán phở này bán khá đắt khách. Sạp báo tôi chỉ có một cái ghế nhựa thấp, lần nào thầy đến, cô chủ quán phở cũng bước ra cầm theo cái ghế nhựa loại có chỗ tựa lưng để mời thầy ngồi và lần nào thầy cũng nói cám ơn cô. Tiếng cám ơn trân trọng vì chuyện mượn một cái ghế được một ông thầy dạy đại học nói với cô bán phở chưa học qua lớp năm, và được lặp đi lặp lại không một lần quên trong suốt nhiều năm. Những hôm cô bán đắt hàng không kịp nhận ra thầy mới ghé, thầy bước đến gần cô chủ quán hỏi mượn cái ghế, cô chủ quán nhiều khi chỉ gật đầu với thầy nhưng lúc nào thầy cũng nói cám ơn trước khi cầm cái ghế. Có nhiều hôm tôi thấy thầy với y phục chỉnh tề đứng thật lâu chỗ cô đang nấu phở, những hôm như vậy tôi biết là cô bán phở lu bu chưa nói tiếng dạ, hoặc chưa gật đầu với thầy về chuyện mượn cái ghế.

 Tôi sẽ không nói sâu về văn chương, thi ca và những giá trị lớn của văn học… Tôi chỉ muốn nói qua những mẩu chuyện bình dị tôi nhận từ thầy và tôi có được tấm gương lớn để luôn soi cá nhân mình vào người khác bằng cả sự trân trọng. Sẽ là vu vơ khi nói về tính tự trọng của con người mà không nhìn thấy rằng cá tính cao quý đó, của bất kỳ ai, chỉ sáng rõ khi phẩm chất và những quyền cơ bản của họ được người khác và cộng đồng trân trọng.

 Với thầy, thầy không đặt điều kiện ai đó lúc giao tiếp với thầy có lòng tự trọng hay không, thầy chỉ giữ chuẩn mực ứng xử trân - trọng - cám - ơn những người mà mình sống chung đụng hàng ngày giữa đời thường.

 Gặp những ngày trong tiết tháng Tám (Âm Lịch), trời Sài Gòn thường mưa nhỏ rả rích vào buổi sáng. Những hôm như vậy, cây dù che sạp báo của tôi không thể phủ được để thầy khỏi ướt, tuy nhiên không vì ngày mưa mà vắng bóng các ông, các bà mà tôi không biết mặt, biết tên tấp xe gắn máy vào chỗ sạp báo, họ không phải ghé để mua báo, họ ghé vô chỉ để cúi đầu thưa thầy Cù An Hưng. Có lần thầy nói với tôi:

 “Tôi trông họ già hơn cả tôi nữa đấy phải không cậu. Cậu nhìn lại tôi xem nào, có già đến thế không nào!” Lần khác thì thầy lại nói: “May đấy cậu ạ, các anh, các chị ấy mà dừng lại hỏi chuyện lâu, phát hiện tôi không nhớ được tên các anh chị ấy, thế là thất lễ!”

 Lúc di cư vào Sài Gòn, thầy mới là một học sinh trung học, nhưng không lâu thầy đã bắt đầu cuộc đời dạy học. Thời đó có nhiều người học muộn, riêng thầy thì nhảy lớp ở bậc trung học nên lúc đứng trên bục giảng thầy chỉ mới hai mốt tuổi. Thầy, tự bỏ nhiều cơ hội mà thế giới trí thức dành cho, để chọn nghề dạy học, viết sách. Thầy nói, nỗi buồn lớn của thầy là phụ lòng kỳ vọng những bậc thầy truyền đạt tình yêu toán và muốn thầy theo đuổi chuyên sâu toán học. Nhưng có một nỗi buồn da diết mà tôi cảm nhận được ở thầy, đó là việc thầy không dành tuổi xuân cho tình yêu văn chương - thi ca. Với thầy, tình yêu này là thứ báu vật đồng hành với quả tim trong ngực mà thượng đế đã ban tặng.

 Chọn nghề dạy học nghĩa là thầy đã đi vào trọn vẹn dòng sông lớn nhất, nơi người thầy như những con tàu chở bản năng con người vươn tới sóng gió trí thức, ánh sáng nhân cách, nơi mỗi người học trò là một thuỷ thủ, mỗi người thầy là một người thuyền trưởng, cùng chia sẻ nhiều lần cái chết bản năng trong những đại dương hoang dã để phục sinh đúng tầm vóc văn minh người.

Tôi không biết nhiều về chuẩn mực quan hệ thầy trò của các bậc trí thức được ví như kỳ lân - phượng hoàng của thế hệ trí thức lớn xưa kia, nhưng với thế hệ thầy Cù An Hưng và lớp kế cận thầy những năm trước 1975 thì tôi có biết qua. Ở sạp báo tôi ngày ấy có một người học trò của thầy Cù An Hưng, ông thỉnh thoảng đến và dừng lại với thầy lâu hơn những người khác. Ông đi một chiếc xe Honda cũ, dáng người thấp bé và tóc đã bạc trắng đầu. Dù ông không còn dạy học nữa nhưng lần nào cũng vậy, ông đến chỉ để kể về học trò của ông cho thầy Cù An Hưng nghe. Giữa đời sống đô thị trùng trùng cấu thành và trùng trùng tàn lụi này, hai vị thầy nhắc cho nhau nhớ về học trò. Với tôi, những người từng thụ hưởng sự giáo huấn của hai thầy ngày nay không biết tồn tại nơi đâu! Tôi chỉ biết là những lúc ấy hai gương mặt thầy giáo già hiện ra một vẻ đượm buồn.

Tôi không gọi cái tình trạng u ẩn buồn đó là hào quang, nhưng nỗi buồn lan toả của hai vị thầy thật sự là thứ ánh sáng của đời sống ký ức dạy học mà từng mạch cảm xúc buồn đó đang soi tìm lớp lớp học trò cũ của mình.

Trong biển mịt mùng quên lãng, không một vị thầy nào để thất lạc học trò mà chỉ có những người học trò phũ phàng thổi tắt trong lòng thầy ánh sáng hy vọng.

Trần Tiến Dũng (Sài Gòn, Việt Nam)

17 Tháng Giêng 2010(Xem: 73122)
Hương bưởi ơi, tôi muốn dỗ dành Đồng Nai nước đục lại trong xanh Hương có bay đi xin trở lại Để mãi là hương của chúng mình.
07 Tháng Giêng 2010(Xem: 73726)
Vạn dặm đường xa, vạn dặm xa Khói chiều vương vấn bóng quê nhà Lòng nặng lòng nghe hoàng hôn xuống Một khối tình em, một mẹ già
07 Tháng Giêng 2010(Xem: 70048)
Cho tôi nhìn thấy nụ cười, Ở trên môi những cuộc đời tối tăm. Cho mây về phố trưa nằm, Làm mưa trôi hết lỗi lầm ra sông.
27 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 74897)
Cúi xuống bờ dậu nghe nao nao Mẹ ngày hè cũng như tháng giá Ngẩng lên thấy mồ hôi ướt áo Vai mẹ gầy như cánh hạc xa
26 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 72967)
Nhắc lại năm xưa tuổi còn thơ dại Áo trắng tan trường kẻ đón người đưa Một thoáng thầm yêu giấu trong sách vở Ấp ủ lâu ngày hoa mộng thành thơ
26 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 74259)
Mùa xuân nghiêng bờ vai Ngắ m đào mai rực rỡ Trắng tinh chùm hoa đại Tỏa ngan ngát mùi thơm
19 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 31959)
Có những cá tính, những sở thích hôm nay bắt nguồn từ thời còn ngồi ở ghế Trung học được các Thầy Cô truyền dạy nhiều kiến thức. Như lớp Tứ 1 (9/1) nk 69-70 của chị Võ Thị Ngọc Dung chẳng hạn cả lớp mê thơ và đã tập tành làm thơ từ một giờ Quốc Văn sôi nổi, lý thú của Thầy Nguyễn Văn Phú.
18 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 75707)
Anh về cõi trời mây Niết bàn muôn tia sáng Nghiệp chướng hết buộc ràng Nơi phương trời giải thoát
18 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 73252)
Mỗi người một hướng đi Tôi ra ngoài sương gió Trung Nam phân nhị Kỳ Xuân Thu đồng nhất Ngộ
10 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 73400)
Trên đường về lặng lẽ Ôm nỗi buồn trong tay Đông ngâm bài thơ cũ Mắt lệ nhòa không hay!
09 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 76163)
Rồi cơn đau buốt niềm riêng Anh sa trường bước vào miền chiến chinh Chờ anh mòn mỏi chờ anh    Bóng khuya vàng khuyết nửa vành trăng nghiêng
04 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 82455)
Áo trắng bây giờ xa thật xa, Gối mộng em vào giấc mơ hoa, Anh vẫn cô đơn đời sương gió, Vàng Thu áo trắng đã nhạt nhòa....
03 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 83372)
Sông buồn vẫn bóng hàng dừa Sóng tình lạc lõng đong đưa nỗi sầu   Mình em ngồi đếm vì sao Sương khuya bạc áo hồn đau khóc thầm
01 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 81686)
Mười bảy năm sau tôi trở lại Nhà cũ, vườn xưa ̣đổi khác rồi Giòng sông thơ ấu không còn nửa Trăng buồn lơ lững...bóng ̣đơn côi...
29 Tháng Mười Một 2009(Xem: 85340)
Em nghĩ cô như dòng sông rộng Ôm nước về chở nặng phù sa Đắp vào em chỗ bờ nông cạn Kiệt sức mình sông vẫn thiết tha
28 Tháng Mười Một 2009(Xem: 91083)
Có một người gõ cánh cửa thời gian* Thấy tháng ngày qua bỗng nhiên dừng lại Thấy nắng hè không còn trên đường cũ Một chút mùa vàng đã bước vào thu.
28 Tháng Mười Một 2009(Xem: 87403)
Tôi trở về đây vào cuối Thu Phi Trường còn đó, gió vi vu Rừng cao su nắng xuyên cành lá Đất đỏ hôm nào thấm giọt mưa
27 Tháng Mười Một 2009(Xem: 81558)
Mùa thu nắng hao gầy trên tán lá Hong chưa khô tóc cỏ ướt sương mù Mây bay về chập chùng không vội vã Gió heo may qua đường vắng vi vu
27 Tháng Mười Một 2009(Xem: 81533)
buổi sáng mùa thu bất ngờ về phố chở buồn ren rén quá giang chở ký ức xa chở mất mát chìm
23 Tháng Mười Một 2009(Xem: 38732)
Nhân mùa Thanksgiving, Lễ Tạ Ơn ở Mỹ, xin được kết hợp hai truyền thống tốt đẹp nhất của Đông và Tây để viết lên những lời tạ ơn chân thành từ tâm hồn của những chsNQ năm xưa ở cả hai thế hệ "nghi bất hoặc" và "tri thiên mệnh" với các Thầy Cô sắp hoặc đã bước vào tuổi "cổ lai hy".
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 79988)
Mùa thu về hai phương trời cách biệt Lá bên nào cũng vàng úa như nhau!
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 81503)
Nghiêng câu lục bát cho đầy Cho Thu thêm ấm cho dài nhớ thương Đêm nầy nghiêng sợi mưa tuôn Nghiêng qua cho đổ lá buồn Thu ơi!
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 82502)
Mùa thu ơi! khoan đi chờ ta với Xin ít mây, xin ít nắng hanh vàng Xin một tí hương thầm nơi hoa cúc Xin nửa vầng trăng rất đổi dịu dàng
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 83610)
nợ tình mỏng, mà nặng đeo mỗi thu như mỗi dày theo tuổi đời hơi may gợn, nhắc bồi hồi một bờ mây, đã, cuối trời quan san...
18 Tháng Mười Một 2009(Xem: 99273)
Chỉ còn vài ngày nữa là thành phố Adelaide, nơi tôi đang cư  ngụ sẽ vẫy tay chào mùa đông để chính thức bước vào mùa xuân. Ngày đã trở nên dài ra và trời đã bắt đầu ấm áp trở lại.
18 Tháng Mười Một 2009(Xem: 93067)
Cầm tờ thư của cô tôi ấp nhẹ vào ngực. Ơi! cô giáo nhân ái còn hơn bà tiên trong thần thoại đã dang tay cứu tôi trong nhiều lần khốn khó. Thời gian đi qua thật lâu rồi nhưng tất cả những gì về cô tôi đều nhớ. Bảy năm trời lớn lên từ một mái trường nên mãi mãi ngôi trường Ngô Quyền thân yêu ấy là một ngăn nhớ êm đềm trong quả tim tôi.
12 Tháng Mười Một 2009(Xem: 78704)
Về bên dòng Đồng Nai Thăm người em xứ bưởi
12 Tháng Mười Một 2009(Xem: 90536)
Mưa ngày xưa, môi ướt - mắt cười Mưa bây giờ, mắt ướt - môi đẫm lệ cay!
12 Tháng Mười Một 2009(Xem: 96268)
Vậy là con bé út của tôi đã đi học được hai hôm. Mọi học khu đều đã khai giảng niên khóa mới từ đầu tháng 9 mà mãi tới giờ, đầu tháng mười một, con gái tôi mới “cắp sách” đến trường cũng bởi nó bị “lọt sổ”.
06 Tháng Mười Một 2009(Xem: 80830)
Lâu lắm mới về  thăm Xứ Bưởi Thăm NGÔ  QUYỀN trường cũ dấu yêu
05 Tháng Mười Một 2009(Xem: 90429)
Thu xưa áo trắng tan trường Mưa rơi ướt tóc người thương đợi chờ
04 Tháng Mười Một 2009(Xem: 93617)
Tôi không là họa sĩ Chì biết lặng lẽ nhìn Sợ...mùa thu thức giấc Sợ...lá vàng rơi nhanh.
02 Tháng Mười Một 2009(Xem: 209340)
Mùa Thu, mùa của tình yêu, của nhớ nhung, lãng mạn và là… của em.
01 Tháng Mười Một 2009(Xem: 99300)
Lại thêm một lần đi giữa đường Thu Mưa đau lòng những ngã tư lá chết
30 Tháng Mười 2009(Xem: 100204)
Đã vài năm qua, kể từ ngày lễ Halloween năm 2005, lúc nào bà Jenna cũng nhớ hình ảnh người giao pizza rất trẻ, chắc chưa đến tuổi hai mươi lúc đó, nhưng có thái độ chững chạc của một người đã đi hơn nửa cuộc đời, và có tấm lòng của một ông tiên trong những truyện cổ tích.
17 Tháng Mười 2009(Xem: 95159)
“Mẹ già như chuối ba hương, Như xôi nếp một, như đường mía lau"
17 Tháng Mười 2009(Xem: 86499)
Theo thời gian Biên Hòa ba trăm tuổi Ba trăm năm một vùng đất hào hùng Không thể nghĩ đó chỉ là đất ở Mà là hồn thiêng nguồn cội non sông.
12 Tháng Bảy 2009(Xem: 161389)
Năm nay, tiệc mừng họp mặt Truyền Thống kỳ thứ 8 được tổ chức tại nhà hàng Seafood Kingdom: 9802 Katella Ave, Anaheim, CA trưa ngày chủ nhật 05 tháng 7, 2009.
10 Tháng Năm 2009(Xem: 68486)
THIỆP MỜI: Họp mặt truyền thống kỳ 8: July 5, 2009 Tại:      Seafood Kingdom Restaurant 9802 Katella Ave. Anaheim , CA - Tel: (714) 636-0398 Ngày:   Chủ nhật  05 tháng 7 năm 2009 từ 11:00 am  đến 2:30 pm
24 Tháng Giêng 2009(Xem: 65556)
  Thiệp Chúc Tết Kỷ Sửu 2009 & Thư Mời họp mặt Tân Niên