Nguyễn Xuân Hoàng, tác giả & tác phẩm
Ngày 13 tháng 9 năm nay là ngày giỗ thứ ba của Nguyễn Xuân Hoàng.
Nguyễn Xuân Hoàng – nhà văn. Nguyễn Xuân Hoàng- nhà báo. Nguyễn Xuân Hoàng- nhà giáo. Ông viết văn, viết tùy bút, viết tiểu thuyết trong không khí của thi ca. Ngôn ngữ của ông có khi là biểu tượng nhưng đa phần là chuyên chở cảm xúc. Dù trong thể loại văn chương nào, cũng là bát ngát của mơ mộng và lãng mạn cách riêng của ông.
Thời đại của Nguyễn Xuân Hoàng là một thời thế đặc biệt. Ở đó, đầy những biến cố từ thuở kháng chiến chống Pháp, đến thời đệ nhất, đệ nhị Cộng Hòa, từ những cuộc di cư đến ngày di tản, từ cuộc vượt tuyến di cư vào Nam đến vượt biển tỵ nạn xứ người. Những biến cố ấy tạo cho cả một thời đại những nét chung mang nhưng lại là những điều riêng biệt trong ký ức mỗi người.
Đọc sách viết về thời kỳ ấy hay viết để kể lại, cái nét chung ấy nhiều khi chuyển thành riêng biệt. Trong văn chương, lấy cái chung làm cái riêng của mình chẳng phải là dễ dàng. Nguyễn Xuân Hoàng là một tác giả mà trong tác phẩm của mình đã mang độc giả đi qua những cảm giác tiền chế của cái chung để đi vào cái riêng của mình một cách rất nghệ thuật. Chính cái nét sống động, của những mảnh đời thật, của biến cố thực, của cảm giác thực đã làm độc giả đi vào một thế giới với sự tò mò qua nhiều câu hỏi.
Nguyễn Xuân Hoàng là Trần Lâm Thăng của Người Đi Trên Mây và Bụi và Rác? Là tôi trong Tự Truyện Một người Vô Tích Sự, trong Ngôi Nhà Ngói Đỏ?
Là một phần hay tất cả trong văn chương và đời thường? Những câu hỏi như thế cứ quanh quẩn trong tâm cảm người đọc. Dù có thắc mắc, nhưng tác giả đã khẳng định ở bìa sau Người Đi Trên Mây: “Cái tôi trong truyện đương nhiên không phải là cái tôi ngoài đời. Tôi là một người khác”
Những tác phẩm của một đời và cũng của một thời. Cái nợ văn chương dường như chẳng bao giờ làm vui người gánh nghiệp. Những nhan đề sách như cùng chuyên chở một nỗi băn khoăn của thời đại như những viên gạch nối tiếp nhau của ngã đường đến một phương trời nào mà đêm và ngày không còn phân biệt và thiên thần và quỷ dữ chẳng khác gì nhau. Sống trong chiến tranh, chịu những cuồng nộ của chiến tranh và mong đợi hòa bình. Nguyễn Xuân Hoàng viết khác với những người đi trước, không giống những người đi sau và nhiều khác biệt với người cùng thời. Ông chẳng thích đóng vai nhân chứng mà cũng chẳng muốn làm người kể chuyện. Mỗi cuốn tiểu thuyết, mỗi một bài thơ, mỗi trang tùy bút, cũng chỉ là một giai đoạn trong hành trình tìm cái đẹp. Vượt qua những định kiến thế nào là văn chương cổ điển hay hiện thực, hiện đại hay hậu hiện đại. Ghé qua tân tiểu thuyết rồi để trở lại với mình, với một Nguyễn Xuân Hoàng luôn luôn vật vã với ước vọng làm mới văn chương. Triết học Tây phương hình như cũng có chút ảnh hưởng trong suy nghĩ nhưng làm văn chương ông thoát ra khỏi cái vòng kim cô của luận lý muôn đời có sẵn.
Có những người yêu tiểu thuyết Nguyễn Xuân Hoàng, hay mến chuộng những trang tùy bút, yêu những bài thơ viết rất hiếm hoi. Và tiếc sao Nguyễn Xuân Hoàng không là thi sĩ. Bài thơ đầu tiên ký tên Hoang Vu, một bút hiệu lạ đăng trên tạp chí Hiện Đại của nhà thơ Nguyên Sa với lời giới thiệu: “Có phải nỗi buồn tập hợp trên mắt những người trẻ tuổi ấy phảng phất niềm đau của thế kỷ bây giờ”, bài thơ Mang Mang của âm điệu một thời, ngữ ngôn một thuở của những năm đầu thập niên 60 thế kỷ 20. Một bài thơ lục bát đã có lúc thành dòng thi ca thời thượng. Những thi ảnh có nét biểu trưng cho một nỗi niềm mênh mang của một thời thế ẩn chứa nhiều biến động của một cuộc chiến đã đến lúc gần kề. Từ chuyện lúc xa phố chợ của đên lên đường đến chuyện mù sương phố núi, từ “chuyện linh hồn với bản thân/ bàn tay thượng đế mộ phần chiêm bao”, để “còn tôi, còn chỉ mình tôi/ mây bay đầu núi kéo trời lên xa”. Chỉ còn là mang mang niềm cô độc, một mình giữa trời và đất, một mình trong lặng thẳm của muôn kiếp luân hồi.
Một bài thơ khác cũng hiếm hoi của thi sĩ Nguyễn Xuân Hoàng mà theo người bạn thân của ông là nhà văn Huỳnh Phan Anh thì “bài thơ thâu tóm trọn tập truyện từ truyện ngắn đến đoản văn, với nhiều tấn bi kịch được khai triển với ít nhiều biến tấu cần thiết”. Bài thơ Nha Trang Hang Động Tuổi Thơ in trong tập truyện Căn Nhà Ngói Đỏ.
Thơ viết về tuổi thơ ấu của những mong ước ra đi nhưng vẫn hứa trở về. Thơ của tuổi trẻ hiện tại lạnh lẽo nhưng tương lai thì chờ đón những đổ vỡ bi kịch.
1.
Tôi sẽ trở lại thành phố đó.
Nơi tôi đã chào đời, lón lên và sống những ngày ấu thơ
buồn thảm.
Quê hương của những hàng cây muồng hoa vàng nghệ
Aûm đạm xấu xí, lùn thấp và rất ít bóng mát
Nơi có bãi cát vàng chạy dài mút mắt và rừng dương xanh
rợp lá không hơi hám người
Tôi sẽ trở lại thành phố đó chớ!
Tại sao không?
2.
Chắc thế nào tôi cũng sẽ phải trở về
Nơi có ngôi nhà mái ngói màu đỏ
Có những giọt nước mắt lặng lẽ của mẹ tôi
Có mùi rượu nồng nặc của cha tôi
Có nỗi đau của một đứa bé tự ôm hôn vết thương
trên da thịt mình
Có một tình yêu đầy đọa
Có một đời đen như đêm trên biển
Ôi ngôi nhà ngói đỏ
Nơi đêm đêm tôi đã lén lút trở về
Nhón gót trên đầu những ngón chân tê
Nhón gót trên một trái tim vừa mới lớn
Đã bị những mũi gai đời đâm thủng
Ngôi nhà của tôi đầy bóng tối quen thuộc
Nhưng vây quanh tôi là những người thân xa lạ
Cha tôi, điếu thuốc trên môi, ly rượu trước mặt
con dao trong tay
Vết chém trên đầu tôi sâu tận trái tim mình
Tôi đã chết khi mới vừa mười một tuổi
Nơi tôi ngủ- một tấm phản sần sùi cứng như đá
Nơi tôi nằm một hốc cửa đầy những người bạn muỗi đen
Ôi ngôi nhà đó, không còn ai muốn thấy mặt tôi
Trong thành phố đó, tôi đã nhìn mình mòn mỏi chết
Mất tích sủi tăm, tan biến như một hột muối trong biển…
Hình như là một đoạn văn xuôi. Nhưng kỳ lạ, nó lại có âm điệu của những thi ngữ rất lôi cuốn. Đằng sau diễn tả, đằng sau những biểu tượng, là chan hòa tình cảm, là lạnh lẽo cuộc sống, là chan chứa nỗi niềm. Bài thơ mở ra những cảm xúc và lôi người đọc vào một thế giới của một ấu thơ thúc đẩy ra đi nhưng hẹn sẽ trở về…
Đọc truyện dài Nguyễn Xuân Hoàng thì người đọc như đi vào một thế giới mà ở đó, những cảm giác vỡ tràn trong những nhận thức man mác của một cuộc sống nửa mê nửa tỉnh. Kỷ niệm, như bóng tối làm nền cho những dương bản chói rọi, và những đối nghịch của thực và mộng là căn bản cho những phận đời tuy trong tiểu thuyết nhưng bàng bạc trong thực tế…
Đọc Khu Rừng Hực Lửa, Sa Mạc, Người Đi Trên Mây, Bụi Và Rác,…thấy thân phận của người trí thức trong một cuộc sống thật nhiều biến cố. Những thay đổi đến tận gốc rễ của một thế hệ mà con đường trường hành là nẻo song song của cõi binh lửa, của những cái chết ở ngoài xa tiền tuyến mà lại tác dụng đến những cuộc đời của những người thành phố. Những nhân vật dường là hình tượng tổng hợp của nhiều người, gần cận bên ta mà cũng xa lạ với chúng ta. Có những suy tư, có những dằn vặt, và hình như ở bất cứ cảnh ngộ nào, cũng là những ngõ cụt, của những nỗi niềm tràn ứ mà không lối thoát…Cái tâm cảm bất lực ấy dường như đã quen thuộc với thế hệ chúng tôi. Những cảnh ngộ, mà, mọi toan tính cố gắng đều vô dụng. Con người, cuốn trôi theo cơn lũ thời thế…
Đọc Ngôi Nhà Ngói Đỏ, những truyện ngắn như những nhát cọ của lưỡi dao sắc, bén, và phác họa được cảnh sống của những người luôn lầm lũi trong sương mù. Cái bàng bạc của triết học dường như làm nền tảng cho những cảm giác thăng hoa trong cõi ngôn ngữ mở rộng trong nhiều cánh cửa. Những cuộc đời trôi theo những lượn sóng, để cảm giác lênh đênh của những hàng chữ mãi bềnh bồng. Mô tả bằng vài phác họa, trong cái chắt lọc cô đọng những xúc cảm. Và, có một lúc, xúc cảm vỡ òa trên trang giấy.
Nhiều người gán cho Nguyễn Xuân Hoàng cái tên của chính tác phẩm ông “Người đi trên mây”. Hình như nhà thơ Nguyên Sa có nói ai mà chẳng có lúc đi trên mây. Nhưng có nhiều thứ mây, có loại êm đềm thơ mộng nhưng cũng có loại gây ra cuồng phong bão tố.
Ở tác giả Ngôi nhà ngói đỏ, là một trường hợp đu dây giữa thực và mộng. Thấp thoáng là sương mù Đà Lạt, là mưa giọt phố Saigon, là bãi cát hoang vu Nha Trang thời thơ ấu. Có phải đó là hành trang để đi vào một cõi văn chương mà tình yêu đã trở thành bông hoa trang sức. Trái tim vẫn có nhịp đập của nó, dù ở bất cứ trạng huống nào và sự ngưỡng vọng, đôi khi là niềm tin để bước đến và đi cùng tận cuộc sống.
Nhân vật của ông, có khi xưng tôi, có khi là ngôi thứ ba nhưng, không phải là biểu hiện của một người. Mà, là tổng hợp của nhiều khuôn mặt. Có thể, một người mà đa diện phong phú đến như thế chăng? Để, nhiều người, đọc và nhìn vào đó, soi gương để thấy bàng bạc nhân dáng, cảnh ngộ mình. Nhưng, cái tâm cảm chung thì rõ nét. Tâm cảm của những người hình như không bao giờ vừa lòng với cái mình hiện có. Họ nhìn về quá khứ, ngơ ngác với tương lai và ngập ngừng trong hiện tại. Nguyễn Xuân Hoàng có phương cách diễn tả của ngôn ngữ, gọn và sắc, bén như những nhát gươm nhưng cũng lạnh lẽo như kỹ thuật tiểu thuyết không tiểu thuyết, truyện không truyện. Chất mơ hồ làm đặc quánh lại những không gian thời gian để những tác động với con người thành những gián tiếp cho cảm xúc. Trong mô tả, là tâm tình dồn nén vào trong suy tư của mình. Giữa hư cấu và hiện thực, có biên giới khá mơ hồ. Ông hay viết về những cơn mơ, của ước muốn luôn luôn ấp ủ về những hình bóng lúc xa lúc gần nhưng hiện diện hàng ngày trong cuộc sống.
Riêng tôi, tôi đọc Đoản Văn Viết ở Cali nhiều lần và mỗi lần đọc, tôi lại thấy mình phiêu du vào những thế giới cảm quan khác nhau. Tôi đọc, thấy lại những ngày tháng qua. Gần hai mươi năm rồi có phải? Tác giả “Người Đi Trên Mây” có lúc như đã cho tôi chia sẻ để “share” những trang nhật ký. Có lãng mạn, có thơ mộng, có bồng bềnh. Có những cơn mưa, ở nơi này nhớ nơi kia. Có Pasternak và có Đỗ Phủ, có mùa hạ bãi trường và mùa thu tựu trường, có Paris và Virgina,… nghĩa là tràn ứ những dữ kiện, những cảm giác. Với tôi, đó là những đoản văn tuyệt vời tuy có người đã cho rằng đó chỉ là những ghi chép vụn vặt. Tôi yêu cái lãng mạn nhưng gần gũi với cuộc sống. Ai trong chúng ta mà không có lúc thấy xao động cùng trời cùng đất? Ai trong chúng ta mà không có lúc lái xe một mình mà đãng trí nghĩ về ngày tháng xưa, kỷ niệm cũ. Nhất là, với văn phong bay bướm của một nhà văn đi tìm cái mới lạ trong cái cổ điển như Nguyễn Xuân Hoàng.
Tôi đọc Mưa Cali nhớ Phạm Ngũ Lão:
“Cali mưa cơn mưa nhỏ chợt đến chiều nay trên đường Westminster như một người khách lạ không hẹn mà tới, Những hạt mưa lớn,thưa, gõ từ tốn trên mặt kính chắn gió nghe như tiếng mưa thuở nào rơi trên mái tôn trước hiên nhà.
Bầu trời ẩm đục, thấp và nóng. Cali đang mùa hè. Cơn mưa tuy không đủ sức làm dịu những cục than hồng, nhưng có thừa cái sắc bén của con dao cau rạch trong tôi những vết thương hoài niệm.
Mưa gõ đi từ góc ngã tư đường Harbor- Westminster là những mũi kim xoi đằm trí nhớ. Mưa dẫn tôi đi trở về trên những con đường quen, khu phố cũ, những bạn bè xa xưa…”
Tôi lấy làm lạ tại sao Nguyễn Xuân Hoàng ít làm thơ. Bởi vì tôi thấy cõi thơ bát ngát trong những đoản văn vừa đọc. Cảnh làm gợi nhớ người, thơ làm cho cảm giác chơi vơi hơn trong cái trơ trọi của thực tại.
Cái trí nhớ ấy có lẽ đầy chật những ý thơ, những câu của ca dao ngàn xưa nhưng còn sống mãi. Sau này, khi ông phụ trách tạp chí Văn, viết những trang sổ tay, tôi vẫn thích những dòng chữ ghi lại từ những ngày tháng thực, dù vội vàng nhưng có nét đáng yêu của những vần thơ tiềm ẩn bên trong…
Ngôi nhà Ngói Đỏ in năm 1989. Tôi đã đọc một trong những cuốn đầu tiên mang từ nhà in về. Đến nay, đã mấy chục năm. Bây giờ, thỉnh thoảng giở ra đọc, vẫn tìm được những nét xao động của tâm tư một thời. Chủ quan tôi, đây là một tập truyện ngắn xuất sắc. Văn phong bay bướm của từ ngữ nhiều hiển lộng như những viên đá tảng lót đường cho những bước chân đi tìm cái đẹp. Thời gian qua, nghĩ đến Sai Gòn, Đà Lạt, Nha Trang,.. tưởng về người cũ, tôi lại giở những trang sách và như một lúc trở về chốn xưa. Có như thế. tưởng tượng như mình trẻ lại, của mới thuở nào… Phải, dường như mới ngày nào, gần lắm, như hôm qua, hôm kia của cuộc đời… Những câu chuyện vẫn còn sức sống, có phải?
Nguyễn Mạnh Trinh
Nguồn: Trang web Thời Báo