Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (p3)
Trong bản Tự thuật của TGM Ngô Đình Thục cho thấy những người em của ông như Ngô Đình Luyện, rất giỏi, được gửi sang Pháp từ năm 12 tuổi. Học lớp sáu xong nhảy lớp bốn. Hết lớp bốn nhảy lớp 2.. Bao giờ cũng đứng đầu lớp. Đỗ tú tài xong được nhận vào trường lớn, École Centrale Paris (ECP).
Người trước dư luận!
Và bản thân TGM Ngô Đình Thục cũng du học Roma rồi Paris. Và là một trong bốn giám mục tiên khởi, thứ ba ở Việt Nam lúc bấy giờ. Trong bản Tự thuật đó, TGM Thục không đả động gì đến việc học của Ngô Đình Nhu cũng như của chính ông.
(“Autobiographie de Mgr Pierre Martin Ngo Đinh Thục”, Archevêque de Hue, tài liệu trích trong Le Doctrinaire).
Trong “Curriculum Vitae De Mgr. Pierre Martin Ngô-Dinh-Thuc” viết năm 1978 khi ông 80 tuổi có đoạn
“Mes études à Rome, du point de vue humain, étaient une suite de succès. Je raflais tous les prix: docteur en philosophie, en théologie, en droit canonique – avec mention très bien ou bien – puis la licence d’enseignement à la Sorbonne. Je rentrais à Hué, en 1927. Nommé professeur d’abord chez les Frères vietnamiens fondés par Mgr. Allys, puis au Grand-séminaire, puis proviseur du collège de la Providence rồi theo lệnh của Toà tahsnh Vatican về làm Đại biện Tông đồ tại Vĩnh Long.
J’étais le troisième vietnamien appelé à l’épiscopat. Le premier fut Mgr. J.B. Nguyễn-bá Tòng, cochinchinois, nommé à Phát-diêm au Tonkin. Le second, Mgr. Cân – mon frère spirituel puisque fils spirituel de Mgr. Allys — occupait à Vinh-long un vicariat apostolique détaché du grand Vicariat de Saigon dont l’évêque était le saint Mgr. Dumortier. On était en l’année 1938.”(Nguồn: “Curriculum Vitae De Mgr. Pierre Martin Ngô-Dinh-Thuc”, 13 tháng Hai, 1978. Trích trong “EINSICHT, Jahrang 28 Sonder Mommer, trang 14-17, April 1998)
“Việc học của tôi tại Rome từ quan điểm của con người xem ra là một loạt các thành công. Tôi đoạt được mọi giải: tiến sĩ triết học, thần học, giáo luật — với hạng danh dự hoặc rất giỏi — và chứng chỉ giảng dạy tại đại học Sorbonne. Tôi về Huế vào năm 1927. Trước tiên được bổ nhiệm là giáo sư trong hàng ngũ tu sĩ Việt Nam do Đức Ông Allys thành lập. Allys, sau đó tại Đại Chủng Viện, rồi là hiệu trưởng của trường Providence, từ đó tôi đã theo lênh Tòa Thánh để nhận chức đại diện tông tòa của Vĩnh Long.
Tôi là người Việt thứ ba được phong Giám mục. Đầu tiên là Mgr. J.B. Nguyễn Bá Tòng, người miền Nam, phong nhậm ở Phát Diệm tại Bắc Kỳ. Thứ hai, Đức Ông. Cân – anh tinh thần của tôi là con trai tinh thần của Đức Ông Allys – thuộc giáo phận tông tòa Vĩnh Long tách ra khỏi Giáo phận Sài Gòn lớn mà giám mục là thánh Giám Mục. Dumortier. Đó là năm 1938.”
Người ta có thể biết đến Ngô Đình Thục nhiều hơn trong một tài liệu của Charles Keith nhan đề: “Annam Uplifted: The First Vietnamese Catholic Bishop and the Birth of a national Church, 1919-1945” đã đề cao 4 vị giám mục tiên khởi. Những vụ phong chức này từ 1933-1945, họ là những vị giám mục đầy quyền lực và làm vinh danh cho dân công giáo bản địa theo đúng tinh thần của Vatican muốn bản địa hóa giáo hội địa phương và biến giáo hôi Việt Nam dần dần đi đến chỗ tự quản.
(Charles Keith, “The first Vietnamese Catholic. Bishop and the Birth of a National Church, 1919-1945”. Bản dịch của Phạm Minh Ngọc, đăng trên diến đàn Talawas.org)
Đó là một vinh dự chung cho Giáo Hội Việt Nam, riêng cho TGM Ngô Đình Thục. Sau khi thụ phong, ông cùng với Ngô Đình Diệm- Ngô Đình Nhu đi nhiều nơi và người ta được biết chút gì về ông Diệm là kể từ thời kỳ này. Ngay khi sang Mỹ sau này, nhân vật Ngô Đình Thục nổi trội hơn cả người em đi cùng là Ngô Đình Diệm.
Sau này, người cháu gọi ông bằng Bác, TGM Nguyễn văn Thuận, còn có được vinh dự lớn lao hơn là Hồng Y ở Vatican, chức vụ cạo trọng bậc nhất trong giáo triều và nhận được sự ưu ái đặc biệt của GH Phao Lô đệ nhị. Không thể dễ dàng gì trong một dòng họ lại có được những người con suất sắc như vậy.
Ngô Đinh Nhu, thông minh sắc sảo, có đầu óc, có kiến thức nhiều, hiểu biết lịch sử, quá tự tin, nhưng lại nặng phần lý thuyết, nặng về kế hoạch. Tính tình lạnh nhạt, bướng bỉnh và không gây được cảm tình cũng như sự tín cẩn của các đồng chí.
Cả hai anh em đều nặng tình gia đình . Và nếu đủ cương quyết, ông Ngô Đình Nhu có thể tránh được tai họa cho cả hai anh em. Cái khuyêt điểm lớn nhất làm tan nát sự nghiệp của ông là nể vợ. Bà Nhu là cái cớ cho dân chúng oán ghét gia đinh họ Ngô. Ông Đoàn Thêm đã nhận xét một cách chí lí là người Việt Nam chưa đủ trưởng thành để có thể chấp nhận một người như bà Nhu. Nhất là những lời tuyên bố ngạo mạn của bà trong vụ Phật giáo như đổ thêm dầu vào lửa.
Ông Ngô Đinh Thục thời trẻ tương đối được. Nhưng dần dần ông trở thành cái đinh cho người đời nguyền rủa và xa lánh chế độ. Đối với nội bộ giáo quyền, Giám mục Thục đã gây ra những mâu thuẫn đến lời qua tiếng lại đối với các giám mục, linh mục, tu sĩ di cư ngay từ năm 1957.
Trong một lá thư, dài ba trang đánh máy, đề ngày 29 tháng tư, 1957, viết tại Vĩnh Long, GM Thục đã lên tiếng mạnh mẽ, tố cáo đích danh nhiều linh mục vi phạm tiền bạc di cư và phê phán các trường di cư mở trường bừa bãi mà không có bằng cấp gì cả. Trong khi người di cư cho rằng họ đã hết lòng với cụ.. Ngược lại Gm Thục cho thấy người di cư nhiều khi đã phản bội cụ.
Xin trích nguyên văn:
“Có giám mục đã xin Bộ đòi bắt giam ông cố vấn. Lính một Giám mục khác đánh Quốc gia ở Rừng Sát.. Tôi sẵn sàng trả lời mọi thắc mắc của các Đấng ấy.”
(Tài liệu photocopy riêng của Nguyễn văn Trung)
Theo tôi, những phê phán của gm Thục có thể đúng nhiều phần. Nếu có điều gì là hình thức phê phán đã tạo ra nhữn chia rẽ trong nội bộ công giáo. Có nhưng sự kiện khác như lính của một GM đánh lại Quốc Gia sự thực thế nào không rõ.
Về lẽ đời, ông cũng chạy theo quyền lực, cao ngạo và thiếu hiểu biết với Phật Giáo. Chung quanh ông phần lớn là những kẻ xu nịnh làm ông mất cảnh giác. Tóm lại , ông không đú sáng suốt để tách biệt Đạo với Đời, để đạo dẫm chân lên đời.
Ông thật sự là kẻ đào mồ chôn chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa.
Edward Miller cũng viết: “Diem at first seemed to follow Thuc into the priesthood.”
(Edward Miller, Misalliance. Ngo Đinh Diem The United States and the Fate of South Viet Nam, 2013, trang 24)
Chỉ rất tiếc là những lá thư này không được TGM Nguyễn Văn Thuận công khai hóa cho mọi người biết và không biết hiện nay trao cho ai giữ?
Thắc mắc còn lại là vì lý do gì Dương Văn Minh quyết định dứt khóat, từ chối ân xá cho Ngô Đình Cẩn? Lý do đơn giản nhất là họ bị thất sủng, bị nghi ngờ và không được trọng dụng.
Theo Edward Miller, khởi đầu của âm mưu đảo chánh chỉ gồm ba sĩ quan là: Minh, Đôn và Kim. Sau cuộc bạo lọan năm 1960 bất thành, cả ba đều cảm thấy bị xỉ nhục vì bị điều tra xem có đính dáng trong vụ đảo chánh bất thành năm 1960 hay không.
“The resentment that Don, Minh and Kim felt for the Ngo brothers had been smoldering since 1960, when they had endured the humiliation of being investigated on suspicion of involvement in the paratroopers’ failed coup.”
(Edward Miller. ibid., trang 282)
Lý do cá nhân thứ hai theo ls Lâm Lễ Trinh phỏng vấn đại tá Nguyễn văn Y, đại tá Y, cho biết Dương Văn Minh khi đánh nhau với Bình Xuyên, có bắt được phuy đựng vàng. Ông đã dấu nhẹm. Nhưng cả hai đại tá Nguyễn Văn Y và Bộ Trưởng Quốc Phòng Trần Trung Dung đều có tập hồ sơ này. Đại tá Y trình ông Diệm tập hồ sơ, Ông Diệm sai đại tá Y đốt tập tài liệu trước mặt ông để xóa trắng tội cho DVM. Tuy vậy, Dương Văn Minh vẫn hận ông Diệm và tìm dịp trả thù.
Cuối cùng Ngô Đình Cẩn bị kết án tử hình như mọi người đều biết.
Việc tìm hiểu về con người và các hoạt động của ông Ngô Đình Cẩn không thể không tìm hiểu những tài liệu về phía người Mỹ. Nhưng thật không dễ để tìm một tài liệu của người Mỹ viết liên quan đến ông Cẩn. Xin nêu vài tác giả quen thuộc viết xa gần đến ông Cẩn như Stanley Karnow, 1997 với Viet Nam. A History, Ellen J.Hammer, 1987 với A death in November, Seth Jacob, 2006 với America’s Miracle Man in Viet Nam, Mc Allister, James, 2008 Only Religions Count in Viet Nam: Thich Trí Quang and the Viet Nam war. Langguth A .J., 2000 Our Viet Nam và Miller, Edward, 2013, Missalliance, Ngo Đinh Diem, The United States, and the Fate of South Viet Nam.
Mặc dù với số tài liệu ít ỏi đó, chúng tôi cũng cố gắng thu nhặt những nét chính yếu liên quan đến ông Cẩn.
Người viết xin chọn một vài ý tưởng của Ellen J. Hammer trong A death in november liên quan đến cuộc đảo chánh tháng 11. Theo E. Hammer:
“Cẩn là người em út còn ở lại Huế, ông sống ẩn dật không ai biết đến và không giữ một chức vụ chính thức nào của chính quyền. Chức vụ của ông chỉ là cố vấn về các đảng phái chính trị. Nhưng người ta lại biết đến ông rất nhiều trong việc chỉ đạo các hoạt động về chính trị và quân sự của chế độ ở các tỉnh miền Trung và ông có tiếng là tàn bạo.”
(Ellen J. Hammer, A Death in November, 1987, trang 78)
Ông Cẩn là người thực tiễn, không viển vông, với một trí thông minh biết kỳ vọng nào là chính đáng, một người Quốc gia cực đoan với một bản năng chính trị thực tiễn, với sự am hiểu biết xử dụng quyền lực trong tay.
Bằng chứng là ông đã dẹp tan các nhóm Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng khuynh đảo ở miền Trung. Họ không thể hoạt động gì ở miền Trung khi Cẩn còn ở đó. Ông có mạng lưới chính trị và tình báo riêng. Nhưng những phúc trình của người của ông Cẩn không phải lúc nào cũng ăn khớp với những thông tin nhận được ở Sài Gòn của ông Nhu. Nói cho đúng người của ông Cẩn không tài giỏi như ông nghĩ, vì thế, họ đã bị CIA xâm nhập.
Quyền bính chính trị địa phương, bề ngoài được trao vào tay Hồ Đắc Khương-một sản phẩm đặc sản Huế. Một dòng dõi cha truyền con nối từ đời ông đến đời cha trong triều đình Huế. Dòng họ Hồ Đắc Khương lại có người đã nương nhờ cửa Phật như một tín chỉ ở một địa phương có đông tín đồ Phật giáo.
Phải chăng phải có bấy nhiêu yếu tố mới ngồi vững ở Huế được? Ông Cẩn có đủ các yếu tố ấy, nhưng lại thiếu một yếu tố căn bản nhất là ông không phải Phật giáo. Nhưng luôn luôn đứng phía sau trợ giúp Phật giáo.
Nhận định về vụ biến động Phật giáo miền Trung sẽ giúp hiểu rõ thêm về quan điểm, lập trường của ông Ngô Đình Cẩn như thế nào.
Khi Viện trưởng Cao Văn Luận tiếp xúc với ông Cẩn để cho biết về việc các giáo sư và sinh viên Huế phản đối vụ mừng kỷ niệm 25 năm thụ phong Giám mục của Ngô Đình Thục. Ông Cẩn tỏ ra bất lực trước một người anh Giám Mục mỗi ngày đẩy xa Ngô Đình Cẩn ra khỏi vòng quyền lực ở Huế. Cẩn bị cô lập vì ông anh thiếu hiểu biết, cao ngạo đến lố bịch. Có văn thư yêu cầu các lm giáo xứ yêu cầu họ đi ủng hộ Tổng thống.
Ông Thục càng muốn cũng cố quyền lực cho người em, ông càng làm hại em mình.
Nói về Cao Văn Luận thì không có ông, Viện đại học Huế không có cơ hội phát triển mau chóng như thế. Viện Đại Học này, nó do ông Diệm xây dựng nên. Nó như một ước mơ thầm kín, một hoài bão của riêng ông cũng như một niềm hãnh diện của cả dân Huế. Vậy mà sau này, chính nơi đây đã xuất phát như một ngòi nổ tạo thành cơn bão chính trị lật đổ người đã khai sinh ra nó.
Ellen Hammer đã nhận xét về Cẩn dựa theo lm Cao Văn Luận, mặc dầu Cẩn không có học lực cao và cũng chắc chắn không phải là loại người tôn trọng dân chủ. Nhưng ông lại tỏ ra hiểu biết và gần dân chúng hơn bất cứ người anh em nào của gia đình Ngô Đình Diệm.
Cẩn than phiền về thái độ không hiểu biết của TGM Ngô Đình Thục không phân biệt được phần đạo, phần đời. Cẩn nói với lm viện trưởng, “But my hands are tied. My brother, the archbishop doesn’t listen to me anymore. You had better go to Saigon and tell President Diem.” (Ellen J. Hammer, ibid., trang 105)
Cái trớ trêu ở đây là Ngô Đình Thục sau 23 năm làm giám mục ở Vĩnh Long, và Vatican đã đủ thông minh để không bao giờ có ý định đề cử Ngô Đình Thục về cai quản Sài gòn, lý do là Vatican thừa hiểu biết muốn tách biệt thế quyền và thần quyền. Không lẽ có một Tổng Thống công giáo đứng đầu lại có thêm một TGM đứng đầu là bào đệ của Tổng Thống thì coi sao được?
Việc chọn TGM Nguyễn Văn Bình là người ôn hòa đã cân bằng được mối tương quan thế quyền và thần quyền. Không bao giờ TGM Bình tỏ ra thân cận với chính quyền Ngô Đình Diệm một cách lộ liễu. Ông tránh né ra vào Dinh Độc Lập và ông tránh né cả những buổi tiếp tân nếu có thể. Và luôn luôn giữ một khoảng cách vừa đủ.
Việc đưa Ngô Đình Thục ra Huế, xa trung tâm quyền lực Sài Gòn và có lẽ người vui mầng nhất hẳn là Ngô Đình Nhu? Ông Diệm có thể chịu đựng người anh với quyền huynh thế phụ, nhưng ông Nhu ít đủ kiên nhẫn, ít lắm ông Nhu khỏi bị quấy rầy bởi sự ra vô dinh Độc Lập của người anh làm giám mục cứ can thiệp vào các việc của chính quyền một cách khôn ngoan khờ khạo, tiến cử người này, tiến cử người kia, ngay cả loại bỏ người nào mà ông không ưa. Ông là người tu trì, không thông việc đời, không hiểu thế thái nhân tinh của một người không hề biết việc đời. Nhưng lại chỉ sẵn sàng nghe theo những lời xàm tấu của kẻ xu nịnh.
Tôi từng đã nhiều cơ hội có nhận xét về khuôn mặt chán chường, không vui lộ ra trên nét mặt ông Nhu mỗi khi ông phải tham dự những buổi lễ do ông Ngô Đình Thục chủ tế tại Đại Học Đà Lạt những năm 1960. Ngoảnh đi ngoảnh lại, ông đã biến mất tiêu, không hề ăn một cái bánh ngọt, uống một ly rượu chúc mừng xum xoe như các hàng bộ trưởng, dân biểu nghị sĩ. Ông Thục đi tới đâu thi có một đàn ruồi bay theo, cờ xí đón tiếp từ phi trường, gấp gáp trải đá vội vãcon đường dẫn tới Viện Đại Học.
Khi ra nhậm chức ở Huế, tướng Trần Văn Đôn là người huy động quân đội đón tiếp một Giám Mục công giáo. Thật đúng là tên nịnh thần và phản thần mà bà Ngô Đinh Thị Hiệp ghét nhất trong hàng tướng lãnh.
(Thật ra không phải đây là lần đầu tiên, giám mục Thục ra Huế. Khi còn là linh mục, ông đã là giáo sư Đại chủng Viện Huế trước khi được bổ nhiệm làm giám mục Vĩnh Long. Sau này, khi hai ông Diệm-Nhu đã bị ám hại, GM Thục một lần nữa còn vận động Giáo Hoàng Phao Lồ Đệ VI xin chính quyền mới cho ông quay trở về Huế như cũ. Nhưng việc bất thành)
Nhưng cả Vatican và ông Nhu đã không ngờ được sự hiện diện của Ngô Đình Thục tại Huế lại là một tai họa cho cả công giáo đến chính quyền đến thế! Huế với một gia tài lịch sử quan quyền, một truyền thống khép kín với bất cứ sự xâm nhập quyền bính nào từ bên ngoài vào đến bệnh hoạn. Làm sao họ có thể chấp nhận được bóng dáng một tổng giám mục quyền bính, cao ngạo bao trùm lên bầu trời xứ Huế? Tôi đã ở Huế, tôi thấu hiểu tâm tình người dân xứ này, nghèo đến không có gì để nghèo hơn. Ruộng đất, kỹ nghệ hầu như không có. Họ sống bằng sự tặng dữ của những người con xứ Huế ra đi làm ăn gửi về và đồng lương công chức, quân nhân tại chỗ.
Nhưng Huế lúc nào cũng ẩn nhẫn, nhưng sôi sục như bếp chấu âm ỉ qua cái bề ngoài thầm lặng.
Sau này hầu hết các biến động chính trị đều xuất phát từ nơi đây.
Cho nên, chỉ có một người duy nhất là Ngô Đình Cẩn có thể ở Huế và nắm được tình hình mà người ta gọi là Cậu Cẩn. Một tên gọi có thể là thân mến, nhưng nhiều phần coi thường. Và ít khi Cậu Cẩn bước ra khỏi Huế, nhưng cái gì Cậu cũng biết, như nắm trong lòng bàn tay và ông đã đã cai quản Huế qua đám tay chân bộ hạ ông ở Huế với bàn tay sắt bọc nhung.
Nhờ cái bàn tay bọc nhung ấy, Cẩn cũng sẵn sàng giúp đỡ trùng tu chùa chiền, các khuôn hội, đi lại thân tình và cả bao che cho Trí Quang.
Nhưng có lẽ điều sai lầm duy nhất trong đời làm chính trị của Ngô Đình Cẩn có thể là đã đánh giá sai lầm Trí Quang.
Hammer kết luận, “ But Cẩn had underestimated Tri Quang.
Ngày 8 tháng 5 Trí Quang ra khỏi bóng tối ẩn nhẫn trong nhiều năm dưới mái chùa Từ Đàm và trở thành nhân vật chính trị và thế lực chính trị hàng đầu ở Việt Nam.
Khi Thục ra Huế, Cẩn vẫn tin rằng ông vẫn có thể là người của tình thế, là một đầu cầu giữa chính quyền và Phật giáo.
(Còn tiếp)
Nguyễn Văn Lục
Nguồn: DCVOnline