Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (P9)
Nếu vai trò vua của Bảo Đại là bù nhìn như đã nhận định ở trên thì vai trò cố vấn tối cao, tệ hơn một bực, là trò hề.
Tìm hiểu con người Bảo Đại qua cuốn Hồi ký của ông
Bảo Đại trong vai trò cố vấn tối cao
Điều tai hại là khi nhận lời mời của Hồ Chí Minh, Bảo Đại không hoàn toàn nhận thức ra điều ấy. Bảo Đại không thể hiểu rằng: mỗi chức danh nó phải tương xứng với chức vụ. Bộ trưởng thì phải ra bộ trưởng, Thủ tướng ra Thủ tướng, lính ra lính, sĩ quan ra sĩ quan.
Nếu nó không được như thế trên thực tế thì rõ ràng có sự tiếm danh hoặc vai trò làm cảnh. Trong suốt giai đoạn làm Cố vấn tối cao, Bảo Đại đã cố vấn được điều gì cho Hồ Chí Minh? Bảo Đại, ông cũng không có một ý thức nghiêm chỉnh nào khi nhận chức cố vấn.
Khi nhận chức, Bảo Đại chưa có một lần bàn thảo với phía Việt Minh nhiệm vụ của ông là gì? Vai trò của ông trong chính phủ là gì? Không, hoàn toàn không. Bảo ông nhận thì ông nhận, bảo làm gì thì làm theo cái nấy. Đã có một người bạn gặp tôi và biện hộ cho Bảo Đại đã nói rằng: “Bảo Đại trong suốt quãng đời làm vua và làm Quốc Trưởng, có thể ông không làm được gì ích quốc lợi dân, nhưng it ra ông chưa bao giờ ông làm hại một người nào.”
Thoạt nghe, có vẻ có lý. Nhưng chính ở chỗ cả đời ông không làm gì, mà lại nắm giữ các chức vụ tối cao thì cái tội không làm gì là tội nặng nhất và đáng lên án nhất trong cuộc đời Bảo Đại. Và cho đến khi ở bên kia cái dốc của cuộc đời, Bảo Đại vẫn chưa ý thức được vai trò ở đời làm người là gì và phải làm gì?
Sau 25 năm rời bỏ chính trị, ông mới quyết định viết Hồi Ký Con Rồng Annam, 1980. Cho đến lúc này, tôi vẫn chưa hiểu trọn vẹn ý nghĩa biểu tượng Con rồng Annam là gì về mặt địa lý, mặt lịch sử, hay mặt văn hóa? Hay nó chỉ là một biểu tượng mang tính huyền thoại. Nhưng điều cụ thể và chính xác nhất là ông đã trích dẫn một câu nói của Khổng Tử làm điểm tựa cho cuốn sách như sau:
“Cái bổn phận đầu tiên của người quân tử là đặt cho mỗi sự vật cái tên thật của nó. Người quân tử đặt cho mỗi vật cái tên đúng với nó và mỗi vật đều được đối xử theo cái tên mà ta đã đặt cho nó.” — Khổng Tử.
Nói tóm tắt, Khổng Tử thấy xã hội loạn, vô trật như “Tôi giết vua con giết cha” thì tìm cách tổ chức lại xã hội để trên dưới có quy củ. Đó là một phương thức quản lý con người trong một xã hội được gọi là thuyết chính danh.
[Cốt lõi của học thuyết chính danh nằm trong câu Khổng Tử trả lời Tề Cảnh Công về việc cai trị quốc gia:
“景公问政於孔子。孔子对曰:“君君,臣臣,父父,子子” 。公曰:“善哉!信如君不君,臣不臣,父不父,子不子,虽有粟,吾得而食?”
Tề Cảnh Công vấn chính ư Khổng tử. Khổng tử đối viết: Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử. Công viết: Thiện tai! Tín như quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử, tuy hữu túc, ngô đắc nhi thực chư?
“Làm vua ra vua, quan ra quan, cha ra cha, con ra con (làm đúng danh vị của mình)”.
Tề Cảnh Công nói: “Hay quá! Nếu vua chẳng trọn đạo vua, tôi chẳng trọn đạo làm tôi, cha không trọn đạo làm cha, con chẳng trọn đạo con, tuy có lương thực đấy, ta có thể ăn được ư?”
Mỗi người đều phải làm đúng với danh hiệu, có vậy thì nhà mới yên, nước mới yên, và xã hội mới ổn định và phát triển.
Nguồn: Bài 12, Thiên 12 – Nhan Uyên, sách Luận Ngữ, Khổng Tử. — DCVOnline]
Nêu ra nguyên tắc như vậy, nhưng Bảo Đại đem áp dụng vai trò nhà vua thì thấy rõ là nói mà không làm. Bảo Đại sống vua không ra vua thì đấy là chẳng trọn đạo. Vì thế, Bảo Đại có tội với toàn dân VN và có tội trước lịch sử.
Đọc lại Hồi ký của ông, trước khi nhận vai trò cố vấn tối cao đi Hà Nội, Bảo Đại nghĩ đơn giản, đến “vô chính trị” như thế này:
“Le “citoyen” Vinh-Thụy que je suis devenu depuis mon abdication, n’a plus rien à faire à Hué. Je décide donc l’accepter l’inviattion de Hồ Chí Minh et de me rendre à Hà Nội.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 123)
“Kể từ khi thoái vị và trở thành công dân Vĩnh Thụy, tôi đã không có việc gì làm ở Huế cả. Tôi quyết định chấp thuận lời mời của Hồ Chí Minh ra Hà Nội một chuyến)

(Bên phải) Ông Vĩnh Thuỵ — cựu hoàng Bảo Đại, sau khi thoái vị trở thành công dân của nước cộng hòa mới, nhận làm Cố vấn tối cao cho Hồ Chí Minh. Nguồn: Henri Estirac, Tháng 11 năm 1945
Đối với Bảo Đại có thật sự đây chỉ vì không có việc gì để làm? Hay là vì sợ mà phải nhận lời? Đây chắc chắn không đơn giản là một chuyến đi chơi? Việc được mời ra Hà Nội là một cách giam giữ như một con tin. Vì rõ ràng chức danh cố vấn tối cao chỉ sau này mới được kèm theo cho danh chính ngôn thuận?
Thật vậy ngay cả chức Cố vấn tối cao mà Hồ Chí Minh đã trân trọng dành cho Bảo Đại thì cả hai bên cũng đều biết rằng đây chỉ là một tước vị hư danh. Kẻ cho lẫn kẻ nhận đều hiểu rằng đây là một đòn chính trị nhất thời.
Lại nữa, chức cố vấn này ngoài Bảo Đại còn có Gm Lê Hữu Từ cũng được truy tặng theo cách tính toán khôn ngoan của HCM. Hồ Chí Minh cũng đã chẳng tốn kém một đồng xu cắc bạc nào cũng đã tặng không cho tân giám mục Lê Hữu Từ!
Có thể cả hai người Bảo Đại cũng như Gm Lê Hữu Từ đều hoan hỉ nhận lãnh. Với Bảo Đại, ít ra với chức danh đó bảo đảm thêm cho sự an toàn cá nhân của ông. Với Gm Lê Hữu Từ, vai trò cố vấn củng cố thêm cái vai trò tôn giáo lẫn vai trò chính trị của ông. Ông dựa vào thế lực tôn giáo cho mưu cầu dành độc lập mà không lệ thuộc vào các đảng phái chính trị.
Nó cho thấy, khi chính trị còn non nớt, lãnh đạo chính trị chưa đủ tầm cỡ, tôn giáo như điểm tựa để biến các tín đồ thành một đám đông quần chúng chính trị.. Điều này có điểm gì tương đồng với các đạo Cao Đài, Hòa Hảo ở phía Nam?
Tuy nhiên, chỉ khác một điều là Gm Lê Hữu Từ là loại người vừa ái quốc cực đoan, vừa tôn giáo trung cổ chính thống tùng phục Vatican nên không dễ dàng để cho Hồ Chí Minh lũng đoạn. Sau này cho thấy rõ, trong các thư chung của tòa giám mục Phát Diệm gửi cho giáo dân, Gm Lê Hữu Từ luôn luôn dùng danh xưng giám mục, dựa vào các tông huấn của Giáo Hoàng để chống đối lại Việt Minh, bị coi là cộng sản. Cho nên sự hợp tác với Việt Minh chỉ có tính cách giai đoạn.
Nhưng, dù thế nào đi nữa, trong khi Việt Minh chưa lộ rõ mặt, cũng có một sự lợi dụng qua lại mà cả hai phía đều thấy có lợi!
Vấn đề của Hồ Chí Minh là tại sao lại chọn Bảo Đại và một vị lãnh đạo tôn giáo làm cố vấn? Cố vấn về vấn đề gì? Và cái lợi thế thu được của nó là gì?
Theo “télégramme à Jean Letourneau, Hà Noi, le 9-6- 1951, p 262-264”, do Trân Thị Liên trích lược như sau:
“Ông (chỉ Gm Lê Hữu Từ) là người dưới tay có 200.000 gián dân, có quân tự vệ riêng, chạy suốt từ Ninh Bình vào đến Thanh Hóa. Đồng thời dưới chiêu bài tôn giáo bảo vệ đạo và tính trung lập cũng đã dính dáng đến những dịch vụ trần thế nhằm đem lại những lợi nhuận tiền bạc giúp nuôi dưỡng các lực lượng tự vệ.
Người Pháp đã được báo cáo đầy đủ về những hoạt động của gm Lê Hữu Từ, ông muốn biến vùng Phát Diệm thành khu vực trái đệm, một chợ trời giao điểm trao đổi thương mại giữa vùng đồng bằng và vùng Việt Minh. Từ nơi đây xuất phát các chuyến hàng chở gạo, muối, nhất là thuốc men, dầu hỏa, vật dụng để đổi lại lấy nước mắm, tre và và gỗ từ Thanh Hóa chở ra. Các trốt canh của tự vệ công giáo vừa kiểm soát an ninh, vừa là trạm thu thuế tất cả các hàng hóa chuyển giao với sự có phép của địa phận.”
(Tran Thi Liên, “Les Catholiques Vietnamiens pendant la guerre d’indépendance (1945-1954) entre la reconquête coloniale et la résistance Communiste”, 1996, trang 491)
Đấy là cái lợi trước mắt mà Hồ Chí Minh khi cho Gm Lê Hữu Từ làm cố vấn.
Chức cố vấn dành cho Gm Lê Hữu Từ nhằm thu phục chẳng những khối 200.000 người Thiên chúa giáo ở khu Phát Diệm mà còn hơn một triệu Ki tô hữu trên toàn quốc vốn kỵ Việt Minh. Chẳng những thế, Phát Diệm còn là lũy hào che chắn cho sự an toàn của Khu Tư cũng như cung cấp hàng hóa thực phẩm, nhất là thuốc men cho vùng từ Khu Tư trở vào. Có thể nói Phát Diệm là căn cứ hậu cần cho vùng Thanh Nghệ Tĩnh trở vào.
Về chức cố vấn dành cho Bảo Đại, Hồ Chí Minh muốn mua chuộc nhân tâm, tạo ra một hình thức bề ngoài một chính phủ thống nhất, toàn đân, có uy tín để thương lượng với người Pháp. Đã có lúc Hồ Chí Minh tạm thời định nhường chức chủ tịch cho Bảo Đại, vì người Pháp chỉ muốn thương lượng với một người như Bảo Đại.
Tuy nhiên, trên thực tế, chức Cố vấn tối cao của Bảo Đại cũng chỉ là hữu danh vô thực, không có một chút quyền hành trong các quyết định của chính phủ, cũng không có được lãnh dù chỉ một xu so với chức Quốc Trưởng sau này. Ngay cả, tiền riêng của Bảo Đại cũng không được rở mó đến những số tiền để dành trong trương mục ở Nhà Băng Đông Dương.
Tuy nhiên, giữa hai vị cố vấn thì xem ra Bảo Đại đóng vai trò tích cực và nổi đình đám hơn là cố vấn Lê Hữu Từ.
Nếu có một nhận xét gì tích cực về phía Bảo Đại thì chính ở chỗ ông đại diện một vai trò cho tính chính đáng chính trị mà nhiều người khác, ngay cả Hồ Chí Minh, không có được. Chính vì thế mà người Pháp, người Nhật, Hồ Chí Minh, đảng phái quốc gia khi cần vẫn phải dùng lá bài Bảo Đại như một giải pháp.
Đây là một lợi thế chính trị mà Bảo Đại vẫn xử dụng cái thế chính trị chính đáng của ông để mưu cầu lợi ích của ông, nhất là giai đoạn lưu vong ở Hồng Kông và sau này khi ký Hiệp Định Elysée với Pháp tại Vịnh Hạ Long.

Cựu hoàng Bảo Đại rời Điện Elysee tháng 2-1948 sau một buổi họp về việc trao trả quyền tự trị cho Việt Nam.
Cựu hoàng Bảo Đại rời khỏi cung điện Elysee, vào tháng Hai năm 1948, tại Paris, sau một cuộc họp. Năm 1948, chính quyền Pháp bắt đầu đàm phán với cựu hoàng Bảo Đại để đứng đầu một chính phủ “tự trị” của Quốc gia Việt Nam trong Liên hiệp Pháp. Ngày 5 tháng 6 năm 1948, Bảo Đại và Emile Bollaert đã ký Hiệp định Vịnh Hạ Long thứ hai, trong đó Pháp long trọng công nhận nền độc lập của Việt Nam. Tuy nhiên, chính phủ Pháp giữ quyền kiểm soát các mối quan hệ ngoại giao và quân đội và trì hoãn chuyển giao các vai trò khác của chính phủ đến những cuộc đàm phán trong tương lai. Thực tế này bắt đầu cuộc chiến tranh Đông Dương thứ nhất, hoặc chiến tranh Pháp-Việt. Nguồn: OFF / AFP / Getty Images.
De Gaulle vốn chỉ coi Bảo Đại như một thứ lá bài “trop usé”, hết chạy theo chính phủ Vichy thân Đức, rồi bù nhìn cho Nhật, ngoan ngoãn quy thuận Việt Minh. Chắc chắn là không nên tin tưởng vào Bảo Đại.
Người Pháp đã muốn đi tìm một vị vua mới. Bảo Long nằm trong danh sách được lựa chọn? Và như thế, Hoàng hậu Nam Phương phải nắm vai trò Nhiếp chính? Đấy cũng là những điểm thuận lợi. Thế nhưng, nhà cầm quyền Pháp đã nghĩ xa hơn đến một nhân vật từng xuất hiện từ năm 1916? Vua Duy Tân. Một nhà vua trẻ bị truất ngôi và lưu đầy ngay từ khi mới 17 tuổi. Ông đã thân lập thân, làm đủ thứ nghề, sau chọn nghề Vô Tuyến Điện, và mở tiệm Radio — Laboratoire bán hàng sửa chữa máy.

Ông Vĩnh San, cựu hoàng Duy Tân, giữa bạn bè ở đài phát thanh và khi mang lon Thiếu tá Pháp. Nguồn: OntheNet
So sánh với Bảo Đại, Bảo Đại có tất cả cái ưu thế bề ngoài mà Duy Tân không có. Duy Tân thể chất yếu đuối. Nhưng ngược lại, những năm tháng lưu đầy đã tạo nên một Duy Tân nhân cách bên trong mà Bảo Đại không thể có được, như tinh thần võ sĩ Samurai hay như Don Quichotte. Và dưới mắt Duy Tân, Bảo Đại chỉ là kẻ xoán ngôi.
Năm 1940, ông tham gia vào hàng ngũ những người theo De Gaulle cho một nước Pháp tự do.
Những năm 1945, khi Nhật xâm chiếm Đông Dương, ông kêu gọi đồng bào trong nước chống Nhật và ngay cả từ chối nền độc lập mà Nhật trao tặng. Kể từ tháng 3 năm 1945, ông trở thanh lá bài sáng giá nhất kế thừa ngôi vua tính từ Gia Long trở xuống.
“Ngày 5 tháng 5 năm1945, Chuẩn úy Duy Tân về phòng Quân sự của tướng Charles de Gaulle ở Paris. Duy Tân đến Pháp vào tháng 6 năm 1945 thì Đức đã đầu hàng ngày 8 tháng 5. Ngày 20 tháng 7 năm 1945, Duy Tân được đưa qua phục vụ tại Bộ tham mưu của Sư đoàn 9 Bộ binh Thuộc địa (9ème DIC) đóng ở Forêt Noire, Đức.
Ngày 29 tháng 10 năm 1945, Charles de Gaulle ký một sắc lệnh hợp thức hoá những sự thăng cấp liên tiếp của Duy Tân trong Quân đội Pháp: thiếu uý từ 5 tháng 12 năm 1942, trung uý từ 5 tháng 12 năm 1943, đại uý tháng 12 năm 1944 và thiếu tá ngày 25 tháng 9 năm 1945.”
(Duy Tân, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Sau đây là những ý kiến của De Gaulle ghi lại trong “Mémoires de Guerre”:
“Để mọi việc có thể đi đến một kết thúc tốt đẹp, tôi đang hình thành một kế hoạch bí mật. Đó là giúp cho hoàng tử Duy Tân trở lại ngôi báu, nếu như vai trò của Bảo Đại do thời thế đã không còn còn hữu hiệu nữa. Nó đã bị vượt qua. Mặc dầu Duy Tân đã bị người Pháp truất ngôi từ năm 1916 trở thanh hoàng tử Vĩnh San và bị đi đầy ở đảo Réunion. Tuy nhiên, ông đã tình nguyện tham gia chiến đấu trong quân đội Pháp với cấp bậc Thiếu tá.
Đấy là một nhân cách lớn mà 30 năm lưu đầy không đủ để xóa bỏ được hình ảnh vị vua này trong tâm hồn người Việt Nam. Ngày 14 tháng chạp tới, năm 1945, tôi sẽ tiếp ông ấy và cùng bàn thảo với ông ấy để biết có thể làm được việc gì. Dù các nhân viên trong chính phủ của tôi sẽ đi đến việc ký kết các hiệp định thì tôi sẽ dự tính đến Đông Dương để ký chính thức một cách trọng thể nhất khi thời cơ cho phép.”
(Général De Gaulle, Mémoires de Guerre, nxb Plon, trích lại trong Daniel Grandclément, ibid., 235-236)
“Sau cuộc tiếp kiến với De Gaulle, hoàng tử không kìm giữ được sự vui mừng lộ ra bên ngoài. Khuôn mặt hoàng tử vốn thanh tú nhưng khô cằn trái ngược với khuôn mặt Bảo Đại đã nở những nụ cười rạng rỡ. Ông thốt lên: C’est fait, c’est décidé. (Thế là xong, mọi việc đã được quyết định). Chính quyền Pháp sẽ đưa tôi trở lại ngôi vua, tướng De Gaulle sẽ tháp tùng tôi khi tôi trở lại đó. Khi nào? De Gaulle tính chuyến đi vào tháng ba.
Phần ông, sẽ làm gì trong lúc này? Trở về Đức? hay chờ ở Paris? Jacques Soustelle quyết định đưa ông trở về đảo Réunion để chờ. Lá thư thông báo quyết định này do Pierre Mesmer ký.”
(Daniel Grandclément, ibid., trang 236-237)
12 ngày sau, chiếc máy bay chở hoàng tử về lại đảo Réunion. Lúc 13 giờ 50, phi cơ rời Fort Lami để bay đến Bangui, trạm kế tiếp. Ngày 26 tháng 12 năm 1945, khoảng 18 giờ 30 GMT, máy bay rớt gần làng Bassako, thuộc phân khu M’Baiki, Cộng hoà Trung Phi.
Một tai nạn. Vâng đúng thật sự là một tai nạn mà số phận đã dành cho ông. Việt Nam mất đi một vị vua xứng đáng!
Xem ra lúc ban đầu, Bảo Đại đóng vai trò công dân Vĩnh Thụy và cố vấn tối cao một cách nhuần nhuyễn. Đi đến đâu Bảo Đại cũng được dân chúng đón tiếp. Và trong cái cung cách đón tiếp ấy, người ta vẫn nhận thấy người dân vẫn nhìn ông như tính chính đáng của một ông vua, dù đã thoái vị. Và nếu HCM có e ngại điều gì về Bảo Đại thì chính ở chỗ này, chỗ một ông vua đã thoái vị mà vẫn có được sự hâm mộ của dân chúng hơn là chức cố vấn bù nhìn.
Chính ở điểm này mà Hồ Chí Minh nghĩ đến thời điểm thuận tiện để loại trừ Bảo Đại sau khi vai trò cố vấn tối cao xét ra không cần thiết nữa.
Dần dần Bảo Đại đã thay mặt Hồ Chí Minh chủ tọa nhiều buổi lễ: như bế mạc “Tuần lễ vàng” ngày 30-9-1945, chủ tọa buổi lễ cơm chay tại chùa Quán sứ, dự lễ tấn phong Giám Mục Lê Hữu Từ ngày 29-10-1945, dự Đại hội Liên Đoàn công giáo Phát Diệm, khai mạc đại hội Thanh niên thành Hoàng Diệu, khai mạc lễ lạc quyên gạo chống đóivv..
Qua những buổi phát biểu trôi chảy trước đám đông và được hoan hô, ủng hộ, ông dần dần tưởng mình có vai trò quan trọng thật, một vai trò chính trị quan trọng như một lãnh tụ, không phải chỉ là một thứ cố vấn bù nhìn.
Đây đánh dấu tính cách bi kịch của một vai hề, đóng riết rồi tưởng thật.
Có lẽ vì thế, ông chẳng hề quan tâm đến câu chế diễu của dân gian như: Việt Nam là một dân tộc nhỏ, nhưng lại có một ông vua cao to, béo tốt như Tây!
Cứ bề ngoài, Hồ Chí Minh tìm đủ phương tiện vật chất cung cấp cho Bảo Đại và đánh bóng vai trò của ông ta.
Bảo Đại vì thế được ở một dinh thự trước kia dành cho viên đốc lý thành phố, ở số 51 đường Gambetta, (bây giờ là phố Trần Hưng Đạo), Hà Nội mà láng giềng còn lại là một số người Pháp. Luôn luôn có một tiểu đội an ninh trực, bảo vệ hay để giám sát Bảo Đại đóng chốt ở một trại Bảo An cũ bên kia đường.
Mọi lễ lạc, yến tiệc dành cho Bảo Đại trong đó có cuộc viếng thăm chính thức của chủ tịch Hồ Chí Minh đã có người tình nguyện lo liệu. Bữa ăn của ông do khách sạn Asia cung cấp đầy đủ hậu hĩ có thể hơn xa nếp sống thanh bạch bên phủ chủ tịch.
Cung cấp đầy đủ ngay cả gái cũng không thiếu. Lần lượt là Lý Lệ Hà rồi đến kỳ nữ Mộng Điệp. Và nay trước đám đông, cặp kè bên cạnh Bảo Đại một cô gái mà tình báo Pháp gọi tên là Thông Thị, tức Lý Lệ Hà đã được phe cánh HCM cài vào. Thông Thị sánh vai chính thức và công khai với Bảo Đại trong mọi dịp mà cả Hà Nội đều biết, bất chấp dư luận.
Ông dùng chiếc xe hơi riêng Mercury mang từ Huế ra để đi lại khắp nơi. Chiếc xe thứ hai cũng mang từ Huế ra, ông đã tặng cho bộ trưởng Lao Động Lê Văn Hiến, người đã tháp tùng ông từ Huế ra Hà Nội.
Đấy phải chăng là tóm tắt tất cả sự hy sinh từ bỏ ngai vàng cho nền độc lập dân tộc của công dân Vĩnh Thụy?
Bảo Đại sống như thể một người độc thân vui chơi và hưởng thụ trong lúc này Hà Nội đang ở trung tâm bão của nạn đói hoành hành. Chính phủ lâm thời thắt lưng buộc bụng. Dân chúng Hà Nội cũng thế, tối đến là mọi nhà, ban ngày vất vả lao động tất bật kiếm sống, đêm đến lo tắt đèn đi ngủ mà có thể bụng còn réo.
Chỉ trừ Bảo Đại còn la cà ở một vài tiệm nhảy về khuya dành cho những người như Bảo Đại. Trong cả một thành phố trong tình trạng mọi người phập phồng lo toan không biết điều gì sẽ xảy ra, Bảo Đại vẫn thong dong vui chơi như không biết có ngày mai.
Nhiều người bảo hoàng biện hộ cho Bảo Đại là người ít nhất không làm hại ai! Biện hộ như vậy là bất chấp sự thật lịch sử. Sự không làm hại ai không thể bào chữa cho trường hợp một kẻ nắm vận mệnh đất nước mà không hoàn thành trách nhiệm. Tội đó lớn lắm. Bào chữa cỡ nào cũng bằng thừa!
Theo trí nhớ èo uột lúc đó chỉ là một đứa bé con, tôi đã thấy thành phố Hà Nội trong giai đoạn tranh tối tranh sáng này như một thành phố chết, không có một bóng người. Vắng hoe! Ngại ra đường! Cửa nẻo đóng cài then thin thít. Hàng quà, gánh phở gánh xôi, tiếng rao hàng mỗi buổi sáng cũng im bặt. Cũng không thấy thấy bóng dáng trẻ con chơi đùa hoặc đến trường như thường lệ.
Khu phố Tây tôi trú tạm càng không thấy bóng dáng một người Pháp nào. Trước sở Hành chánh tài chánh trông ra hai ba ngả đường, có hai xe tăng bánh cao su chĩa súng đại liên ra bên ngoài trông nghiêm trọng. Và dưới mắt một đứa trẻ thì sức mạnh của Tây là vô địch.
Và nếu tôi nhớ không lầm, cho đến tháng tám, năm 1946, tôi còn thấy đôi lần xe bò chở xác người chết đói, lóc cóc trên đường Hàng Đôi (Bây giờ là đường Hoàng Diệu), hướng về ngõ phố Hàng Than, chắc để đi chôn vội. Bóng dáng tử thần vẫn lảng vảng trong đầu óc người dân Hà Nội.
Hà Nội lúc ấy có thể nói có một thái độ lưỡng lự: Trông và chờ, không biết ngả theo ai, Mọi người như trông chờ một điều gì quan trọng xảy ra mà nó chưa xảy ra. Vậy mà cả cái thành phố ây, lại có một ông cố vấn vô tư lự vui chơi hưởng thụ!
(Cái hình ảnh đói kém ấy tưởng đã qua, vậy mà sau 1975 một vài năm sau, dưới chính sách ngu xuẩn của Lê Duẩn, chính sách vô sản hóa gắn liền với vô học, người dân Hà Nội lại một lần nữa rơi vào cảnh đói ăn trong khi nước nhà đã độc lập. Lê Duẩn đã cướp đi tất cả của cải vật chất như chạm vào nỗi đau, chỗ da non nhất của con người để vô sản hóa.)
(Còn tiếp)
Nguyễn Văn Lục
Nguồn: DCVOnline