Tôi nhấc chiếc xe đạp lên, đẩy xuống thềm. Trời vẫn mưa tầm tã, Nam đi bên tôi.
“Ông đưa xe cho tôi.” Nam nắm đòn dông nhấc lên. “Tôi biết một quán cà phê này hay lắm.”
Chúng tôi bước xuống đường.
Mưa vẫn đổ tới tấp như thể người ta bưng cả một chậu nước lớn đổ xuống.
“Xe ông đâu?”
“Tôi đi bộ.”
“Bộ nhà gần đây hả?”
“Không. Tôi ở đường Lê Quý Đôn. Bố mẹ tôi đi hết rồi.”
“Rồi sống làm sao?”
“Thử đạp xích lô, nhưng không nổi. Bữa gặp ông là bữa đầu. Chở cái nhà chị tự tử đường Cống Quỳnh.”
Mưa bỗng tạnh bất ngờ. Mặt trời lên. Nước ở mặt lộ kéo rốc xuống chợ Thái Bình. Ống cống hai bên lề đường uống nước ồ ồ.
Nam bỏ xe xuống mặt đường khi chúng tôi băng từ nhà thương Tù Dũ qua Hồng Thập Tự tẻ sang Nguyễn Thiện Thuật.
“Bộ ông muốn uống cà phê Năm Dưỡng hả?”
“Không. Cà phê Năm Dưỡng đắng chát. Vỏ măng cụt với cơm nguội chớ có gì? Chỗ này hay lắm.”
“Bây giờ ông làm gì?”
“Rồi, trả lời rồi. Dạy tiếng Anh.”
“Mà trước ông làm gì?”
“Tôi học Quản Trị Xí Nghiệp.”
“Phải chính trị kinh doanh ở Đà Lạt không?”
“Không. Tôi học ở Kent University, Ohio bên Mỹ.”
“Vậy sao? Mà về nước hồi nào?”
“Về mấy ngày áp chót. Cả nhà tôi đi hết qua đảo Guam. Bà chị tôi làm trong Tòa Đại Sứ Mỹ mà!”
“Vậy nghĩa là chưa đi làm ở đâu à?”
“Làm gì? Mới ra trường mà. Ông cụ tôi nói làm ở RMK lương lớn. Nhưng tôi định xin vào Esso.” Nam chặc lưỡi, “RMK với Esso. Xích lô cũng không xong. Ông được mấy cháu rồi?”
“Ồ!” Tôi ngập ngừng. Tôi không biết nói thế nào cho người bạn mới quen rõ. Tôi có hai cháu đã đi Pháp. Tôi có với Quỳnh một đứa con. Nhưng quanh tôi giờ đây chẳng còn ai.
“Xin lỗi!” Nam cúi xuống mặt đường, lách qua một vũng nước. “Sắp tới rồi. Tôi muốn mời ông đi ăn cái gì nong nóng trong chợ Nguyễn Thiện Thuật.
Rồi uống cà phê sau. Được không?”
“Cám ơn. Tôi không đói. Hay là mình đến chỗ cà phê đi.”
“Ừ. Thì đi. Thật ra là tôi muốn mời ông ăn.”
Con đường Nguyễn Thiện Thuật ngắn. Qua khỏi chợ chừng mười bước, Nam dừng lại trước một căn nhà nhỏ. Cửa sắt kéo nửa chừng. Sàn nhà thấp hơn mặt đường. Mấy cái bàn nhỏ. Chừng mươi cái ghế đẩu. Quán vắng. Nam lay lay cánh cửa. Tiếng động của mấy thanh sắt đập vào nhau hơi ồn.
“Hồng ơi, Hồng!”
Một cô gái từ sau nhà bước ra. Họ có vẻ quen thân nhau.
“Anh Nam. Sao lâu dữ?”
“Mới ở tù ra.”
“Mới ở tù ra?”
“Không đúng lắm. Ra cũng được tuần rồi. Thôi, đây là ông Thăng. Còn đây là cô Hồng, bạn tôi.”
Cô chủ quán đứng nhích ra, nhường chỗ cho chúng tôi bước vào.
“Hồng cho anh hai ly đen nóng. Một gói ba số.”
“Một gói? Sao bữa nay anh sang dữ vậy?”
“Bữa nay có tiền. Bà chị bên Mỹ vừa gửi cho mấy trăm đô.”
Nam chọn chiếc bàn trong góc.
“Từ nay, không nói chuyện vượt biên nữa.”
“Sao vậy?” Tôi tựa lưng vào vách. Tay tôi sờ lên ngực. Cái bao nilông đựng thư và tiền của Ma Chirac vẫn còn đó.
“Tôi vừa nhận được giấy bảo lãnh của bà chị. Trước sau gì cũng đi được mà. Tôi chỉ lo cho ông bạn thân của tôi thôi.”
“Bạn thân của anh là ai?”
“Chắc anh không biết đâu! Nó tên Phước. Bạn từ nhỏ. Phước đi lính, còn tôi đi học. Tay đó lì lắm. Tụi này xa nhau khá lâu, sau bẩy lăm mới gặp lại.
Tụi này hay gặp nhau ở đây. Tù tội lia chia biết đâu mà tìm... Chỉ có chỗ này chắc ăn.”
(Còn tiếp)