Tôi nghĩ là chị an ủi tôi. Quỳnh thì không nói năng chi. Suốt những ngày còn lại ở Nha Trang, cô bế con ra biển ngồi trên bờ cát nhìn màu xanh của trời và nước. Lần đầu tiên khi Quỳnh nói muốn đi biển, tôi theo cô thả bộ xuống bãi. Tôi chỉ cho Quỳnh biết những nơi ngày xưa tôi thường hay đến. Cây dừa này hình như lúc nào cũng vậy, không có vẻ gì như bị già đi vì năm tháng. Những lùm cây này cũng vậy hình như mới vừa hôm qua tôi chui vào trong đó núp trốn những thằng bạn học ở trường về réo gọi tên tôi vì bị thầy giáo nhắc trong lớp học. Nhà “dây thép” này thì có vẻ như nhỏ hơn, cọ đơn nữa. Nó đứng một mình. Xung quanh trống trơn không thấy nhà cửa cây cối nào để che đỡ. Sau lưng là biển. Trước mặt là con đường trải hắc ín vắng tanh. Tôi nói cho Quỳnh nghe những kỷ niệm của tôi về cái quán ăn mang tên Fregate, nơi tôi và Bouquet Odette chui dưới gậm bàn nhìn những người lớn nhảy nhót. Và bụi dương, cái khách sạn Hotel Beau Rivage này, trường hải quân, Cầu Đá, hải học viện, Đồng Đế... chỗ nào tôi cũng thấy có chút dấu vết tôi... Quỳnh đã nghe tôi nói với một nỗi lạnh lùng mà trước đây chưa bao giờ tôi nhìn thấy. Những lần sau Quỳnh đi biển một mình. Tôi để cô tự do với thiên nhiên. Quỳnh nói đứng bên bờ biển tâm hồn mình rộng lượng hơn.
Cô trầm lặng suốt những ngày còn lại ở Nha Trang cho đến khi trở về. Chúng tôi như bị ngăn lại bởi một tấm màn voan mỏng. Tại sao? Tôi chưa hiểu. Tôi đi tìm ông Công. Tôi muốn xuống Bạc Liêu xem tình hình ra sao. Bác Ngô trước nhà cho biết ông Công có đến tìm tôi mấy lần. Có lẽ sắp có chuyến đi. Ông Công có hứa với tôi là bao giờ ông cho hai đứa con ông đi, ông sẽ dành cho gia đình tôi một chỗ thôi, số còn lại cứ đóng vàng tính theo đầu người.
Tôi ra quán cà phê vỉa hè trước nhà bà Luật Sư Đại. Nơi đây tôi chắc chắn thế nào cũng sẽ gặp mấy “đệ tử” của ông Công. Nhưng khi đến nơi, tôi mới biết là không có đứa nào cả, mặc dù quán vẫn đông khách như thường lệ. Những người trẻ và cả những người sồn sồn mỗi người trước mặt một ly cà phê đang nói về những người khác hiện đã đến được bến bờ tự do. Một người kể chuyện tiếu lâm thời đại. Ông ta nói nhỏ cho vừa đủ mấy bàn nghe. Và cả đám cười. Những câu chuyện tôi đã từng được nghe, nhưng lần nào nghe lại cũng phải cười cay đắng. Mỗi lần tôi như thấy câu chuyện có thay đổi thêm bớt. cắt xén đôi chút... nhưng nội dung thì vẫn là một. Đại khái một đoàn xe chở đám cán bộ cao cấp trong đó có Thủ Tướng Phạm Văn Đồng trên đường đi Long An, Gần tới cầu Bến Lức thì thấy một người nằm giữa đường xe không cách nào lách qua được. Công an áo vàng xách súng chạy tới, kể cả đám du kích đang gác cầu, dí súng vào đầu người đàn ông nằm giữa đường bắt tránh cho xe thủ tướng đi. Nhưng người kia sau khi ngước mắt lên nhìn mấy tên công an và đoàn xe, lại gục đầu xuống bám chặt chân tay lên mặt đường.
“Con người là vốn quý nhất! Phải trọng con người!” Thủ tướng thường dặn cán bộ công nhân viên như vậy. Không ai dám làm mạnh người nằm dưới đường kia. Sau cùng tên công an xếp sòng đến bên xe Phạm Văn Đồng: “Báo cáo đồng chí thủ tướng, chúng tôi đã nói hết lời nhưng tên phản động kia không chịu đứng dậy đi. Xin đồng chí thủ tướng cho phép dùng “bạo lực cách mạng” để triệt tiêu bọn phản động dám ngăn cản con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa của chúng ta.” Thủ Tướng Đồng, sau một hồi trầm ngâm suy nghĩ, mở cửa xe bước ra, từ từ đến chỗ người đàn ông nằm. Và mọi người ngạc nhiên không hiểu thủ tướng nói gì mà người đàn ông vụt đứng dậy chạy một mạch băng qua ruộng, xuống dưới chân cầu, mất hút. Tên xếp sòng công an ngơ ngác. Sau khi mở cửa xe cho thủ tướng ngồi vào, hắn hỏi: “Báo cáo đồng chí thủ tướng, xin đồng chí thủ tướng cho biết đã nói gì khiến tên phản động phải bỏ chạy?” Thủ Tướng Đồng ngó và mặt tên công an cười: “Tôi nói nếu anh không đứng dậy đi tôi coi như kể từ nay anh đã chính thức được kết nạp vào đảng cộng sản Việt Nam.”
Tôi ngồi nhâm nhi ly cà phê. Tôi nhớ lại mấy ngày ở Nha Trang. Cái chết của ông anh tôi. Bọn ruồi xanh ruồi vàng nhảy vào chiếm đoạt ngôi nhà của một người vừa mới nằm xuống. Chị dâu tôi và chữ ký trên tờ giấy viết sẵn của tên công an. Từ sau ngày mẹ tôi khuất núi, chị như một bà mẹ.
Tôi biết chị lo sợ tôi bị tù tội. Nếu không có chuyện tôi bị bọn công an bắt làm con tin, chắc gì chị đã chịu thua. Nhưng chị cứu tôi mà chị không nghĩ là chị còn ba đứa con đang nằm trong các trại cải tạo. Những giọt máu của chị đang sống trong cảnh tù đầy và bầy con nheo nhóc của chị đang chờ ăn từng bữa.
“Thưa thầy.”
Một người trẻ tuổi dựng vội chiếc xe đạp ở lề đường gọi chào tôi.
“Kiệt! Trời ơi, lâu dữ. Sao nghe nói em về dưới quê? Ngồi xuống đây!”
Kiệt kéo ghế ngồi cạnh tôi. Mới có mấy năm mà Kiệt đã lớn hẳn.
“Em ở dưới mới lên chừng tuần nay. Em vượt biên bị bắt ngã Mỹ Tho. Bị giam cả sáu tháng trời.”
“Rồi lên trên này em ở đâu?”
“Em ở nhà dì em, ở khu Nancy . Mà lâu nay thầy có vô trường không?”
“Không. Tại sao?”
“Em cũng không vô trường, nhưng đứa em con bà dì của em nói trường cũng đã thay đổi thêm mấy đợt. Nhiều thầy, cô đã xin nghỉ hoặc vượt biên. Ông Hiên hiệu trưởng cách mạng cũng thôi rồi, thấy có biết không?”
“Ông Hiên bị mất chức sao?” Tôi ngạc nhiên.
“Dạ không. Người ta nói ông Hiên đã đổi ngành xin làm công tác sở giáo dục quận.”
“Cô Loan dạy sử địa là em ông Hiên có chồng làm tới đại úy quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã vượt biên với cả nhà. Người ta nói ông Hiên che chở cho chồng cô Loan khai gian không học tập, bây giờ trốn luôn.”
“Thiệt vậy sao?”
“Đó là người ta nói vậy. Chớ em thì em nghe bà dì em nói bà vợ ông Hiên mới đây đã tự tử. Thành ra ông
Hiên tuyệt vọng, không còn tha thiết cách mạng nữa.”
“Tự tử. Bà vợ ông Hiên tự tử?”
“Dạ, dì em nói bả tự tử vì bên thành ủy được bên công an báo cáo rằng trong thời gian ông Hiên bị tù Côn Đảo, bà Hiên ra vô Tổng Nha Cảnh Sát khai báo điềm chỉ chỗ ở của cán bộ nằm vùng để mong cứu chồng ra sớm. Hồ sơ đó vẫn còn nguyên trong Tổng Nha nên bên công an nắm được. Bà Hiên nói đó là vu cáo. Và bà tự tử. Ông Hiên bị hạ tầng công tác.”
“Không thể hiểu nổi!”
Tôi nhớ lại cái hình ảnh Hiên gọi tôi vào văn phòng hiệu trưởng. Đó là một người đàn ông trung niên gầy ốm xanh xao. Hiên có dáng đi của một người lúc nào cũng như sắp ngã. Đôi mắt luôn luôn nhấp nháy như sợ ánh sáng. Bàn tay trái hay sờ lên lỗ tai. Hút thuốc nhiều và không biết cười. Hiên thuộc loại người có cái bề ngoài đau khổ. Tiếng nói nhỏ gần như mất hết sức sống. Điểm đặc biệt: y là người trầm tĩnh.
Tôi nhớ lời phê của Hiên trên tờ giấy xin nghỉ của tôi mà sau này vô tình hay cố ý Sự đã cho tôi một bản.
Hiên xem tôi là một người phóng đãng trong một xã hội đồi trụy và phản động. Phóng đãng không phải là phóng khoáng. Tôi hiểu điều đó.
“Hạ tầng công tác?” như vậy là hạ tầng công tác sao?
Phóng khoáng hay phóng đãng, trắng hay đen, rốt cuộc rồi cũng vậy thôi.
“Chừng nào Kiệt về dưới?”
“Thưa thầy, cuối tháng.”
“Em có tính đi nữa không?”
Kiệt mở to mắt nhìn tôi dò hỏi. Đi hay ở là chuyện bình thường của người Sài Gòn. Vấn đề là có nên nói thật chuyện này với người đối diện hay không mới là điều đáng suy nghĩ. Bất cứ thứ gì ở Sài Gòn lúc này cũng có thể xảy ra. Người ta yêu nhau vội vàng, sống vội vàng, giành giựt vội vàng... Người ta tố nhau, lường gạt nhau, đâm chém nhau... chỉ vì một lý do rất tầm thường. Người ta sống như thể chút nữa đây người ta không còn có mặt trên cõi đời này. Những lời trăn -> trăng trối không nói ra nhưng ai cũng hiểu.
“Thưa thầy,” Kiệt hơi ngần ngừ, “em có chuyến đi vào cuối tháng, ngõ Rạch Sỏi, Thầy có muốn đi với em không?”
“Tôi cũng đang tính. Một người quen hứa cho một chỗ. Ngã Bạc Liêu. Nhưng mấy hôm nay không gặp ông ta. Điều kiện trong chuyến đi của Kiệt ra sao?”
“Em nghĩ là em có thể dành cho thầy một chỗ được. Nếu cô và em bé cùng đi thì em có thể bàn với chủ ghe. Có thể không đòi hỏi gì thêm đâu. Em bảo đảm mà!”
Kiệt ngập ngừng bưng ly cà phê lên uống ực một hơi như uống nước lạnh.
“Có lẽ em phải đi mua thêm mấy thứ lặt vặt. Thầy suy nghĩ. Chủ nhật em sẽ đến nhà thầy.”
(Còn tiếp)