Mai Thảo [8.6.1927-10.1.1998] Tính đến ngày 10 tháng Giêng 2010 vừa qua, Mai Thảo đã chia tay cùng chúng ta đúng 12 năm. Bài viết này lẽ ra nên post lên vào ngày 10 tháng Giêng, nhưng tôi cứ do dự sợ bạn đọc cho rằng tại sao cứ mãi viết về những người đã ra đi mà không viết về những người đang ở giữa chúng ta. Thế nhưng mới đây, nhân đọc một phản hồi của tradao [Australia] dưới bài viết của hoạ sĩ Đinh Cường về Bùi Giáng, tôi mạnh dạn đưa bài viết này lên như một đáp ứng…muộn màng. Tác giả Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời, như nhân vật trong truyện này của anh, khám phá ra một điều là "... những kẻ đã tới đích đều tầm thường, những cái đã đạt được đều tầm thường..." Để cho Ngọn Đỉnh Trời mãi mãi là một bí mật, một thần tượng, một cái gì không vươn tới được, không đạt được, nhân vật của Mai Thảo không muốn bước tới, và anh đã chọn sự ra đi. Tôi nghĩ không phải là một sự tình cờ mà Mai Thảo, trong khi trả lời phỏng vấn của Jane Katz, trong Artists In Exile, nói rằng Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời là truyện ngắn anh thích nhất. Anh giải thích "leo lên cho được một đỉnh núi cao nhất phương Đông" nhân vật của anh muốn biết đỉnh núi ấy cao bao nhiêu, "anh đang đi tìm một thứ chân lý tuyệt đối và cũng là hạnh phúc. Nhưng khi đặt chân được lên đỉnh cao ấy thì anh thấy như tuyệt vọng, bởi vì, anh chợt ý thức ra rằng cái chân lý tuyệt đối ấy chẳng bao giờ đạt tới được." Qua truyện ngắn này, người ta có cảm tưởng như Mai Thảo suốt đời là một người luôn đi tìm hạnh phúc, nhưng rốt cuộc anh vẫn không tìm thấy hạnh phúc ở đâu. Có phải hoài nghi và cô đơn là hai thuộc tính trong con người nhà văn Mai Thảo? Các nhà phê bình văn học, có dịp sẽ làm công việc phân tích này. * Nhớ tháng Tám, 1996, khi nhận tờ Văn từ tay Mai Thảo, tôi nói với anh là anh hãy cố gắng viết Sổ Tay vài kỳ cho người đọc và bạn hữu thấy rằng sự chuyển tiếp không quá đột ngột. Anh bảo: "Ừ, tôi sẽ viết." Khi bài vở cho số báo đã đầy đủ, chỉ còn thiếu trang Sổ Tay của anh, tôi nhắc mấy bận, nhưng anh luôn hẹn "đến mai". Và mỗi lần đến thăm anh, tôi thấy sức khỏe anh đi xuống quá rõ, tôi không thể nhắc nữa. Để tờ báo có thể ra kịp đầu tháng Chín, như đã hứa, tôi thấy không còn cách nào khác, phải viết những trang đầu cho mỗi số báo. Nhưng tôi không muốn dùng lại đề mục Sổ Tay của anh. Trên tờ Văn, tôi nghĩ, Sổ Tay là của Mai Thảo. Sổ Tay Mai Thảo. Chữ nghĩa của anh từ bao nhiêu năm nay, qua những trang Sổ Tay, đã đến với người đọc như một người bạn thân, bước vào nhà bạn mà không cần gọi trước hay phải gõ cửa. Ngôn ngữ trong Sổ Tay Mai Thảo đã có cái nét riêng của nó. Phải là Mai Thảo ký dưới trang Sổ Tay của Văn, chứ không thể là của một ai khác. Đó là lý do tôi chọn chữ Thư Hàng Tháng cho những trang chữ của tôi. Tờ báo đã xong. Công việc còn lại, lúc đó, chỉ là mang lên nhà in Kim trên Los. Tôi gọi điện thoại báo cho Mai Thảo biết chiều nay báo sẽ mang in. Anh ậm ừ bảo anh chị bác sĩ Phó Ngọc Văn vừa từ Hoa Thịnh Đốn xuống, và anh hỏi tại sao không ra Viễn Đông uống một ly nước với người bạn từ phương xa tới. Tôi ra quán cùng ngồi với anh và anh chị Phó Ngọc Văn. Tôi còn nhớ hôm đó trời Cali nóng dữ dội, mặc dù mùa hè sắp hết. Tôi hỏi anh nghĩ sao nếu tôi thay mục Sổ Tay của anh bằng mục Thư Hàng Tháng, chẳng hạn kỳ này tôi sẽ ghi là Thư Tháng Chín, thay vì Sổ Tay Tháng Chín. Mai Thảo đang đưa ly rượu gần chạm môi bỗng ngừng lại. Anh không vui, bảo theo anh thì không nên thay. Cứ giữ lại chữ Sổ Tay, vì trước hết người đọc Văn từ lâu đã quen với tên gọi của nó, và "với mục Sổ Tay, H. còn có lợi thế là có thể viết về nhiều thứ, nhiều điều, từ cái nhỏ nhặt gần gũi nhất của chính người viết tới cái xa nhất về thời sự, thời cuộc thế giới. Như một chút thời tiết. Như một cuộc gặp gỡ bạn bè bằng hữu. Nhẹ nhàng thôi. Chỉ là những ghi chép đôi khi vụn vặt, nhưng rất là đời sống." Tôi hiểu ý anh. Và mặc dù mục này xếp chữ đã xong với cái tựa Thư Tháng Chín, tôi đã phải ngồi xuống bàn viết sửa lại cái tựa, xóa bỏ lý do vì sao chọn chữ Thư Hàng Tháng, viết thêm một đoạn gặp anh và anh chị Phó Ngọc Văn, và sửa Mục Lục. * Cho nên, mỗi tháng, sau khi đã xếp chữ, layout xong toàn số báo, tôi luôn luôn chừa ra sáu trang cho Sổ Tay. Đó là những trang viết sau cùng. Và đó cũng là lý do nhà in T&T ở Costa Mesa hay giục sao tới ngày rồi mà chưa thấy mang báo đến in. Tôi không viết dễ dàng và trôi chảy như Mai Thảo. Tôi đắn đo, cân nhắc, tôi luôn luôn muốn viết Sổ Tay theo một phong cách khác với Sổ Tay Mai Thảo. Trong thời gian hai năm đó, mỗi lần lấy tờ Văn từ nhà in về, công việc đầu tiên là tôi mang báo đến anh. Anh nhìn cái bìa báo, hỏi in màu tốn kém làm sao chịu nổi. Anh hỏi lần tới sẽ chọn tranh ai làm bìa. Liệu có sống nổi không? Có lần bất ngờ anh hỏi tôi có uống chút chăng. Tôi biết Mai Thảo chỉ hỏi cho vui chứ anh biết tôi đâu phải là người ghiền rượu. Anh để mấy tờ Văn trên đầu giường, cạnh cái gối của anh. "Để chốc rồi đọc." Và anh hỏi tin tức tờ báo. Những khó khăn trong công việc và đời sống của tôi. Căn phòng tối vì cửa lá sách đã vặn xuống. Một phần cánh cửa được mở cho khói thuốc có thể thoát ra ngoài. Tôi chỉ im lặng ngồi nhìn anh. Và anh cũng không nói gì thêm. Thường, tôi ngồi với anh không quá mươi phút vì tôi phải đi làm. Một năm sau, khi anh rời căn phòng phía sau nhà hàng Song Long để vào bệnh viện Fountain Valley, rồi Good Samaritain, rồi Barlow Hospital ở Los Angeles, tôi ít gặp anh. Thường, muốn thăm anh, tôi hay đi ké xe của nhà báo Đỗ Ngọc Yến. Hôm bệnh viện Barlow báo cho biết ngày đầu tiên tháo ống nhựa ở cổ anh để anh tập nói, vì sức khỏe anh đang bắt đầu hồi phục, tôi đã bỏ một buổi làm, theo Đỗ Ngọc Yến lên Los. Bữa đó, bà bác sĩ [?] Gloria giải thích việc lấy ống nhựa ra và muốn anh phải tập nói. Tôi mang tờ Văn số vừa in đưa cho anh và nói cho bà bác sĩ Gloria biết bệnh nhân Quý Nguyễn đây là một nhà văn nổi tiếng Việt Nam, và ông là chủ nhiệm tờ tạp chí văn chương mang tên VĂN này. Đỗ Ngọc Yến chỉ vào chữ MAI THẢO trên trang hai bìa sách nói cho bà Gloria biết đó là bút danh của ông Quý Nguyễn. Bà Gloria xuýt xoa một cách lịch sự như mọi người Mỹ lịch sự khác, nhưng bà vẫn không quên nhắc, buộc anh phải đọc những dòng chữ lớn trên tờ VĂN. Lúc đầu anh nhất định lắc đầu từ chối. Anh không đọc, không muốn đọc. Thế nhưng, vì bà Gloria cứ dí mãi tờ báo vào mắt anh, và cứ chỉ tay lên chữ VĂN, đột nhiên tôi nghe tiếng anh đọc khá rõ: V. Ă. N. Và một câu kế tiếp không rõ lắm. Anh đọc "tẹp chí ven học nghẹ thuột". Chúng tôi rất mừng nghe lại tiếng nói của anh. Bà Gloria là người vỗ tay to nhất và nhiều nhất. Đó là một buổi sáng Los Angeles tràn trề nắng ấm. Tôi nghe bà bảo sắp tới nhà thương sẽ để anh ngồi xe lăn và có người đẩy anh đi dạo dưới nắng. "Rất tốt cho ông ấy. Ông Nguyễn sẽ bình phục thôi." Anh bình phục thấy rõ. Anh được đưa trở lại Quận Cam, nằm ở Viện Hồi Phục. Tiếng nói anh nghe đã rõ và anh đã nhận diện được những người đến thăm anh. Nhưng thời gian đến với anh đã không còn nữa. Ngày 10 tháng Giêng 1998, Mai Thảo ra đi. * Mai Thảo đã ra đi như vậy là đã 12 năm. 12 năm đó, trong các câu chuyện bên ly cà phê, trên cả những trang viết về Mai Thảo, có người hỏi tôi: Ông có phải là người bạn thân thiết của Mai Thảo không? Tình bạn của ông và Mai Thảo thế nào? Sao không bao giờ nghe ông nói về tình bạn của hai người? Điều gì đã gắn bó giữa ông và Mai Thảo? Đó là một câu hỏi rất khó trả lời đối với tôi. Trên số Văn đặc biệt Tưởng Mộ Mai Thảo phát hành vào tháng Hai, 1998, tôi viết: “Từ bên nhà, cũng như ở bên này, tôi chưa bao giờ ‘tự coi’ hay ‘được coi’ là người thân của anh Mai Thảo. Nếu hiểu ‘thân’ theo cái nghĩa là gần gũi, chia sẻ mọi va chạm trong đời sống và những suy nghĩ về văn chương. Trái lại, tôi luôn luôn ‘cảm thấy’ có một khoảng cách giữa anh và tôi. Cái gì làm nên khoảng cách đó, tôi không rõ. Cho đến bây giờ tôi vẫn không rõ. Nhưng tôi biết rõ một điều là tôi luôn luôn yêu quý anh. Như một ông anh trong gia đình.… Nói cho rõ hơn, điều khiến tôi yêu quý Mai Thảo trước nhất và sau cùng không phải là văn chương. Tôi thích câu viết của Thanh Tâm Tuyền: “…những người có cùng quan niệm văn chương chẳng làm cho họ gần gũi, nối kết với nhau…mà đôi khi còn đố kỵ nhau là đàng khác. Có lẽ bởi quan niệm là cái thứ có thể lượm nhặt, học hỏi, ai cũng có thể biết, có thể có, vì là sản phẩm của trí tuệ. Và nói trí tuệ là nói vô cùng, nói đảo điên, nói xuôi nói ngược đều được…” Tôi vẫn thường nghĩ dán mắt thật sát, thật gần vào một đối tượng, tưởng là sẽ thấy rõ đối tượng ấy hơn, thật ra làm như vậy ta sẽ chẳng thấy gì cả. Cái khoảng cách cần thiết vừa phải chính là để cho mỗi người có thể nhìn thấy rõ người kia hơn, và qua đó có thể nhìn thấy rõ mình hơn. * Tôi luôn yêu mến và quý trọng Mai Thảo trước đây và ngay bây giờ khi nghĩ đến anh, theo tôi, chính là nhờ cái khoảng cách cần thiết ấy. |
|
Nguyễn Xuân Hoàng |