CHA VÀ CON.
Ba thân yêu của con,
Hôm nay con ngồi đây viết những lời nầy thì cha con ta đã thực sự xa nhau hơn nửa tháng. 60 năm con sống với ba, cũng như 95 năm cuộc đời ba là chuỗi ngày bất tận. Trong niềm tiếc thương vô hạn, ký ức của con sẽ mất đi khi con theo về với ba. Con muốn kỷ niệm của cha và con sẽ được lưu lại cho con cháu mai sau. Hai cuộc đời, hai thế kỷ trãi qua cuộc sống của kiếp người trong bể trầm luân hỉ, nộ, ái, ố...rồi cũng về với cát bụi mà thôi. Nhưng cuộc đời ba vẫn còn mãi trong tâm tư của các con.
Ba chào đời trong thời kỳ khổ đau của đất nước. Dân tộc ta chịu sự đô hộ của người Pháp. Bình diện bên ngoài thế giới, cuộc thế chiến thứ nhất sắp đi vào giai đoạn kết thúc. Gia cảnh nghèo, như cái nghèo của dân tộc, nội làm nghề đánh xe thổ mộ. Học xong tiểu học, ba phải rẽ ngang cùng bác Hai vào học nghề ở trường Mỹ nghệ Biên Hòa. Học xong 4 năm ở trường nghề, bác Hai lên làm thợ xoay chén ở Thủ Dầu Một. Ba bỏ năm học cuối để theo anh mình đi làm kiếm tiền về phụ gia đình nuôi 6 đứa em thơ dại. Nơi lò chén, ba gặp mẹ. Đất Thuận Giao là quê nội của mẹ. Ông bà cố khá giả, có nhiều ruộng đất. Nhưng ông ngoại không chí thú làm ăn, tối ngày say xỉn. Mẹ thuận tình về làm dâu xứ bưởi. Năm 1938, khi mẹ sinh anh hai thì bà nội cũng sinh chú út.
Từ đôi tay tài hoa người thợ.
Mẹ gặp cha nơi lò gốm thân quen.
Trai xứ Biên, bén duyên gái Thủ.
Những mầm xanh từ đất vươn lên.
Rồi ba và mẹ về lại Chợ Đồn, bỏ đi những năm tháng làm thuê nơi xứ xa. Ba về làm ở trường Mỹ nghệ Biên Hòa, nơi ba được đào tạo những năm về trước. Rồi lần lượt những đứa con ra đời. Ba và bác Hai cùng các cô chú cố gắng làm lụng để nuôi ông bà nội đau yếu. Con chào đời khi ông nội đi xa đã được hai năm. Khi con bốn tuổi,bà nội cũng bỏ con cháu theo về với ông nội. Lúc đó con đã có trí khôn. Con nhớ, ngày đưa bà nội về quê mẹ ở xã Tân Hạnh, con mặc đồ tang trắng bằng vải mùng, ngồi bên hông xe nhà giàn. Đoàn đưa tang kéo dài đến Chợ Đồn cũ. Đó là thời kỳ yên bình của đất nước sau 80 năm đô hộ của người Pháp. Người dân và chính quyền bắt đầu xây dựng lại đất nước. Vùng đất Chợ Đồn cũng có sự thay đổi. Ngôi chợ cũ nằm cập bến sông được dời về gần ngã tư, trên nền đất của Tổng hành Dinh đạo Cao Đài. Mãnh đất của ông bà nội để lại cho con cháu được may mắn nằm đối diện chợ Bửu Hòa mới. Cơ hội thoát nghèo cho dòng họ Đỗ của ta. Căn nhà mình ở hiện tại, hồi trước nội cho người ta thuê cất nhà. Bây giờ hòa bình lập lại, người ta đồng ý trả đất, với điều kiện gia đình phải mua căn nhà. Ba hỏi các cô chú, không ai có đủ khả năng tài chánh. Ba chạy khắp nơi, mượn bạn bè, mượn hụi, đủ số tiền 50.000 vnđ, thời điểm 1958, để mua lại căn nhà bề ngang 8 mét, dài 20 mét. Cô năm Hiếu, chủ nhà cũng là chủ lò gạch, nói với ba :
_Cậu Ba nên xây gạch lại hai tấm vách nhà , vì bằng cây đã mục. Tôi bán gạch thiếu cho cậu, có tiền trả sau.
Ba cảm ơn và từ chối vì sợ nợ chồng thêm nợ.
Phố xá mọc lên quanh ngôi chợ mới. Nhà mình mở cửa hàng tạp hóa. Má thôi không còn hàng ngày quảy đôi thúng chén sành sứ sang chợ Biên Hòa để bán. Hai chị đã lớn, cùng má trông nôm cửa hàng. Ba vẫn hàng ngày đi làm ở trường Mỹ nghệ bằng chiếc xe máy Sachs hiệu Capri. Mỗi sáng khi đi, ba mang theo một lon sửa bò gạo,và một lon guigoz thức ăn đựng trong túi vải "bồng bột".
Tết Nguyên Tiêu năm 1959, lần đầu tiên trong đời con được ba dẫn đi chơi xa. Ba và con, chú Hai Tài Ký và chị Kim, được chú Tài phú của nhà ông Ban Kiết chở trên chiếc xe con cóc Citroen đi vía Bà ở Thủ Dầu Một. Lễ rước kiệu Bà được tổ chức buổi chiều. Kiệu Bà rước đến đâu, pháo được đốt đến đó. Các dây pháo thả dài từ trên lầu đến mặt đất. Cù, lân, rồng, hàng mấy chục con múa diểu hành theo đoàn rước kiệu. Đó là thời kỳ thanh bình sau mấy mươi năm chiến tranh của đất nước. Tối hôm đó, chú Tài phú đưa mọi người đi ăn cơm Tàu ở nhà hàng Chợ Lớn. Mấy năm sau, gia đình nghe tin chú bị tai nạn giao thông, tử nạn ở dốc 47 .
Xong cấp tiểu học trường làng, con thi vào trung học Ngô Quyền. Ngày có kết quả thi tuyển, ba đi làm về ngang nghe xướng danh. Gần hai tiếng đồng hồ đứng mỏi chân, không có tên con, ba thễu não về nhà.
_Đứng cả buổi mà không nghe tên mày. Có mày ở đó là tao đạp một cái rồi.
Cơn thịnh nộ của ba cũng là nổi buồn của con. Năm sau, con cố gắng ôn tập thi lại. Ngày có kết quả, con đậu thứ hạng 6 trong tổng số 250 học sinh được chọn. Ba đi làm về, con báo tin mừng cho ba, ba ôm con cười ra nước mắt. Mấy hôm sau, ba chở con đi Chợ Lớn lấy hàng về bán và mua sắm dụng cụ nhập học cho con. Một chiếc cặp da, môt cây bút máy Pilot màu đen, tập sách và cả chiếc áo mưa .
Năm 1963, con vào trung học, lưng ba còm thêm vì suốt ngày ngồi bên chiếc bàn xoay. Có lần, ba chở con vào chỗ làm. Con nghịch ngợm bên những cục đất sét trắng, nhào nặn in hình những con thú bằng những khuôn mẫu nhỏ. Con chạy lên đầu lò nung gốm, bên ống khói cao ngất, nhìn xuống bên dưới là đường rầy xe lửa, hai bên là những dạt lúa màu xanh.
Vẫn quanh năm oằn lưng làm thợ.
Nuôi đàn con ngày tháng lớn khôn.
Cha mãi là cây cao bóng cả.
Là bóng mây che chở đời con.
Đầu năm 1968,
chiến cuộc diễn ra khốc liệt. Tết Mậu Thân. Ba lo âu thêm khi con phải đi học
quân sự học đường một tháng. Riêng con, con vẫn cố gắng mỗi năm lên lớp, để được
nhận giấy chứng nhận tình trạng hợp lệ quân dịch. Cuối năm 1970, con tốt nghiệp trung học, bắt đầu khúc quanh mới của sự nghiệp học tập, vào đại học.Con phải
lên Sài Gòn trọ học, cuối tuần thứ bảy mới về nhà. Sáng thứ hai, được ba
"viện trợ" tiền bạc và thức ăn khô cho con. Cà-phê bột, sửa hộp, mì
gói, cá hộp, bột giặt..., những hàng hóa tiêu dùng của Nhật mà người Mỹ hào
phóng ban cho qua hình thức viện trợ. Ba khuyên con cố học, tránh sự sa ngã của
những hiện tượng xấu mới du nhập vào xã hội ta. Phong trào hippy, quần ống túm,
vạt áo sơ mi dài bó gối, tóc tứ quái...Thấy bạn bè có xe gắn máy, con ước ao có
một chiếc để đi học. Chú Tám xuống hãng hỏi thăm giá cả để
"còm-măng". Một chiếc Honda dame "đập thùng "thời điểm đó
48.000 vnđ. Ba cũng đồng ý mua cho con, nhưng nhà phải mượn hụi, bớt vốn nhập
hàng. Thấy vậy, con không đòi hỏi nữa. Một chiếc Mobilette Đức màu xanh mua lại,
cũng là phương tiện để con đến trường và từ Sài Gòn theo ngã xa lộ về nhà mỗi
tuần.
Mùa hè năm 1972, con xong năm thứ hai đại
học,chuẩn bị bước vào hai năm chuyên nghành. Nhưng mơ ước không thành hiện thực.
Chiến tranh Việt Nam đi vào đỉnh điểm. Mọi nguồn lực được đổ dồn vào cuộc chiến.
Lớp trẻ chúng con bị cuốn vào vòng xoáy của chiến tranh. Ngày nhận lệnh nhập ngủ,
ba buồn rầu nói với con.
_Thôi đành chấp nhận, chẳn lẽ trốn chui nhủi hay sao ?
Con mặc áo lính, giả biệt gia đình, bè bạn
rồi vào trường Bộ Binh Thủ Đức. Mỗi sáng chủ nhật, ba mẹ mang, xách đến thăm
con. Trong doanh trại, con háo hức chờ tiếng loa vang. Thức ăn khô được tiếp tế.
Con chỉ ăn cơm ở nhà bàn, không dám la cà ở các câu lạc bộ. Con hiểu hoàn cảnh
gia đình và sự khó nhọc của ba mẹ. Hàng quân tiếp vụ, bạn bè bỏ không mua, con
mua lại rồi gửi cho gia đình để bán kiếm lời.
Cuối năm 1972, gió đã xoay chiều. Người
ta không muốn theo đuổi cuộc chiến tranh hao tổn và bị dư luận lên án. Trò
ngưng bắn được bày biện. Bọn SVSQ chúng con được làm công cụ tuyên tryền cho
chiến dịch. Con được phân công công tác ở Cần Thơ, cách xa nhà gần 200 cây số.
Ba mẹ lại lo lắng. Ba theo dượng Ba, em rể bác Hai gái, đến thăm con. Vì sự ham
vui của tuổi trẻ, trước khi ba lên xe đò, con căn dặn ba.
_Gần đến ngày Noen, ba bảo các em gửi điện tín cho con để xin phép về thăm nhà.
Thực tế là con về để đi chơi với bè bạn ở
Biên Hòa. Khi cầm tờ điện tín trên tay, con bàng hoàng.
_BA BỊ XE ĐỤNG NẶNG, GẢY TAY CHÂN. VỀ GẤP.
Ba ơi, hãy tha thứ cho con.
Rồi con ra đơn vị, về chiến trường Trà
Vinh, đối mặt với cái chết và sự sống, dù rằng lệnh ngưng bắn ký chưa ráo mực.
Hồi đó phương tiện thông tin liên lạc không đa dạng như bây giờ. Hàng ngày gia
đình vẫn trông thư con. Có thư về là con còn sống. Cũng có thể thư đến nhà thì
con đã xuôi tay. Cả tháng không có thư con, ba lại bắt xe đò xuống thăm con. Có
lần, cậu Sáu , em mẹ, từ Long Thành về thăm anh chị, ba rủ cậu xuống Trà Cú
thăm con. Ba và cậu đến nơi, con đang ở vùng hành quân. Anh hạ sĩ người Miên,
tà lọt của đại đội trưởng, ngồi tọc mạch kể chuyện về con cho ba nghe. Tháng
trước con suýt bỏ mạng ở Tập Ngãi, Tiểu Cần, vì đơn vị bị phục kích. Thôi thì số
mạng chớ biết tính sao.
Rồi ba má cũng tìm cách chung lo để con
không ở đơn vị chiến đấu. Đầu năm 1974, đơn vị trưởng đồng ý cho con về làm sĩ
quan truyền tin đơn vị, để được đi học ngành, với điều kiện phải lót tay số tiền
tương đương hai tháng lương. Con trình bày xong, ba đồng ý và đưa tiền để con
xuống đơn vị gấp. Đôi khi đồng tiền cũng đổi được mạng sống của bản thân. Rồi
con về Vũng Tàu học truyền tin. Rồi con chuyển ngành về Hành chánh tài chánh bằng
năng lực của mình. Một năm đó là thời gian yên lành của tâm trí ba. Ngày tàn cuộc
chiến, con mặc trở lại bộ dân phục. Nổi mừng vui của ba chưa dứt thì lại có nổi
lo. Con phải vào trại tập trung để đánh bóng lại cuộc đời. Ba má lại phải trông
chờ hàng ngày nhận giấy báo thăm nuôi để đến với con. Những chuổi ngày chờ đợi
và âu lo.
Một
đời cha, nước non ly loạn.
Nửa
đời con, đất nước loạn ly.
Con
vào lính, ngày con khôn lớn.
Cha
theo con đến cuối cuộc phân kỳ.
Ba không còn làm ở Hợp tác xã Gốm nửa, mà
về làm cho Xí nghiệp Gốm
của chú Ba Nam ở gần nhà. Ba đã 60 tuổi, như tuổi con bây giờ. Sức khỏe không
còn như ngày xưa. Chiếc bàn xoay của ba đã được gắn cái mô-tơ chạy điện để
không phải đạp chân. Ba sản xuất hàng thô tại nhà rồi giao cho xí nghiệp. Con từ
trại tập trung trở về, ba bảo.
_Con phụ ba kéo hàng giao cho xí nghiệp, để người ta thấy mình có lao động mà
không bị đưa đi kinh tế mới.
Khi hai đứa em con từ chiến trường Tây
Nam trở về sau 3 năm chinh chiến, ba mới thở phào nhẹ nhỏm nói với gia đình.
_Sau cuộc chiến tranh nầy, gia đình mình không có bị thương vong, mất mát, đó
là điều phước đức của ông bà để lại.
Ba đã dạy chúng con làm điều nhân nghĩa,
trọng việc tốt, tránh điều xấu, đúng theo những điều đạo lý mà nội đã dạy cho
ba. Nghèo cho sạch, rách cho thơm. Những khi rảnh rổi, ba kể cho con nghe về
lai lịch của dòng họ. Thời ông sơ từ miền ngoài vào Nam lập nghiệp, sinh 2 người
con. Đỗ văn Thông và Đỗ văn Minh. Một người định cư ở Lái Thiêu, Tân Uyên. Một
người ở Chợ Đồn, Tân Vạn. Rồi sinh con, đẻ cái. Những người họ Đỗ ở Tân Uyên
cũng có thể là bà con.
Rồi ba vẫn miệt mài lao động cho đủ thâm
niên làm việc để được nghĩ hưu theo luật định. Hàng tháng ba vẫn lảnh số tiền
lương hưu đủ để ăn sáng và tiêu vặt hàng ngày. Cuộc sống các con đã khá giả hơn
xưa, đủ sức nuôi ba đến trọn cuộc đời. Nhưng ba không chịu ở không, có lẽ do
lao động quen rồi. Ba xin làm lại cho xí nghiệp theo chế độ hợp đồng, ăn lương
thời vụ. Hàng ngày ba vẫn đạp xe đến xí nghiệp. Có lần trên đường về, ba bị xe
tải quẹt té, các con lo lắng. Nhưng nhờ trời, ba bình yên, không sao. Cho đến
khi sức khỏe không còn cho phép, mắt mờ, tai yếu, ba mới chịu ở nhà với các
con. Ba cũng không chịu nghĩ ngơi, bày bàn giấy số trước nhà, kiếm tiền ăn
sáng.Thực tế là ba muốn tìm vui bên những người bạn già của ba. Buổi sáng, bên
ly cà-phê sửa nóng, ngồi kể chuyện với tri âm, đó là niềm vui cuối đời. Nói
trúng đề tài là ba thao thao bất tận.
Mười năm về trước, căn nhà của ba má gầy
dựng đã được các em xây dựng thành căn lầu đúc 2 tấm sàn để làm nơi ở và mua
bán. Bởi vì con người sinh ra nhiều mà đất không nở thêm được. Mỗi chiều, ba
lên sân thượng trồng kiểng, tưới cây. Con mừng cho sức khỏe của ba. Một, hai
năm sau, ba lên đến sân thượng phải ngồi nghĩ thở, các con bắt đầu lo lắng. Rồi
các con không để ba ngồi bán số nửa, để bắt đầu phụng dưỡng tuổi già cho ba. Thấy
ba ăn được, các con yên tâm. Thấy ba mệt khó thở, có lẽ lao lực quá độ, các con
lo lắng.
Thêm một ngày mừng cha tuổi thọ.
Như
thiên thu gọi ước mơ về.
Mẹ
khuất bóng theo mây về núi.
Phụng
lìa loan, kẻ chợ người quê.
Hai năm về trước, chú Bảy bị suy tim, hấp
hối. Ba bảo các con đưa ba vào thăm chú, như một lần vĩnh biệt. Khi chú Bảy mất,
ba đã mò mẩm đi quanh quan tài. Anh khóc em.Hai tuần trước khi ba mất, cô Năm bị
đột tử, các con dấu kín không cho ba hay. Cho đến một ngày, sức tàn, lực kiệt.
Như cây đèn dầu đã cháy sáng 95 năm, giờ dầu đã cạn dần,bấc đã lụi tàn, một cơn
gió nhẹ thoảng qua, một cách an nhàn, ba đã vĩnh viễn lìa đời khi con cháu quay
quần đông đủ.
Năm năm về trước, trước khi mẹ lìa đời,
ba đã có ý nguyện hỏa thiêu thi hài. Ba nói, vì sợ người chết không yên khi phải
cải táng để dành đất cho người sống. Khi mẹ được đưa về an táng trong nghĩa
trang gia tộc họ Lưu ở Thuận Giao, ba lại có ý nguyện xin một chỗ an nghĩ cạnh
mẹ, nơi miền đất phúc mà 75 năm trước ba mẹ gặp nhau. Ba cũng trăn trối với các
con.
_Người ta sống, phải có nhà và ngủ ở nhà mình. Khi chết đi, nằm ngủ giữa trời đất.
Bây giờ các con đã làm đúng ý nguyện của
ba. Hai ngôi mộ song song xây giống nhau, nam tả, nữ hữu. Chỉ có hàng rào bao bọc
bên ngoài và không có mái che ( nhà mồ), để ba mẹ thanh thản nắm tay nhau giữa
trời đất, xung quanh là mộ chí những người thân.
Giờ
trong giấc ngủ bình an.
Sánh đôi huyệt mộ, phụng
loan cận kề.
Trăm năm tình nghĩa phu thê.
Trời cao đất rộng, bốn
bề tri âm.
Ba kính yêu của con,
Một đời người, một rừng cây. Khi ba mất đi đã để lại lòng
thương tiếc vô hạn nơi các con. Hôm đám tang của ba, con thấy xót xa nhưng hảnh
diện khi đoàn người xếp hàng chờ đợi để vào cúng viếng.Họ là bạn bè, đồng nghiệp
của các em, cũng như là học trò của ba. Họ là những người thân, họ hàng, lối
xóm, biết gia đình ta từ thuở Chợ Đồn còn hoang vu, nhiều mồ mã. Từ thuở 2 cây
cầu sắt mới bắt qua sông Đồng Nai mà hồi đó nội có tham gia xây dựng. Từ thuở nội
còn đánh xe thổ mộ lộc cộc từ Chợ Đồn xuống Tân Vạn, ngược lên bến đò Ngựa rồi
vòng qua Cầu Hang. Niềm hạnh phúc dâng trào trong nổi buồn tang tóc. Con trai của
con, đích tôn của ba, chỉ kịp về mặc bộ đồ tang rồi ôm linh vị ông nội trước giờ
động quan ít phút. Bởi vì mấy hôm tang lễ của ba, cháu phải vào trường làm đồ
án tốt nghiệp. Chắc ba tha thứ và không hờn trách cháu. Bốn tháng trước, lúc ba
nằm bệnh viện, cháu về thăm ba. Con nắm tay ba và nhắn nhủ.
_Ba cố gắng sống, có thể là thêm một năm nửa, để cháu cầm bằng tốt nghiệp cho nội
vui. Con là niềm hy vọng của ba, nhưng không thực hiện được ước mơ. Cháu sẽ
thay con thực hiện ước mơ của ba.
Bây giờ ba đã vĩnh viễn xa lìa con cháu,
theo quy luật sinh tử mà không ai tránh khỏi. Nhưng ba vẫn sống trong lòng
chúng con. Trong tim con có chỗ cho ba mẹ nằm.
Thì thôi, ba ngũ ngàn năm.
Con
còn đi khắp thế gian khóc cười.
Cuộc đời là vậy đó. Con còn nặng nợ với đời
và sẽ tiếp bước ba, theo sau. Câu trả lời chỉ còn là thời gian.
Vĩnh biệt ba kính yêu của con.
Biên Hòa, 11 giờ 30, ngày 31/10/2011.
Đỗ công Luận.
CHS K.08 NQ